LTS:
Karl Marx ca tụng học thuyết Darwin và vin vào đó mà cho rằng học thuyết Marx cũng là khoa học Ngày nay, người ta thấy rằng học thuyết Darwin có nhiều sai lầm. Dù cho học thuyết Darwin có đúng, nghĩa là loài người luôn tiến hóa, cũng không thể cho rằng chủ nghĩa cộng sản là đỉnh cao của loài người, và xã hội loài người đi lên theo chiều xoắn trôn ốc! Thực tế đã cho thấy chủ nghĩa cộng sản là một thất bại, là con đường đi xuống địa ngục, và thuyết Duy Vật lịch sử, và Duy Vật Biện Chứng pháp là hoàn toàn sai lầm.
Khoa học và tôn giáo là hai việc khác nhau. Khoa học nghiên cứu thế giới vật chất, thế giới hữu hình, còn tôn giáo đối tưọng là tinh thần, là linh hồn. Hai bên phương pháp khác nhau, đối tượng khác nhau cho nên không thể có một kết luận.Hiện nay quan điểm chung là như vậy, chờ xem tương lai, các nhà khoa học sẽ kết luận như thế nào về nguồn gốc loài người.
Sơn Trung
Nguồn gốc sự sống
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một hòn đá stromatolites (một loại đá trầm tích cổ, thường chứa các loại vi khuẩn hóa thạch) tìm thấy ở công viên quốc gia Glacier, Mỹ. Vào năm 2002, William Schopf của UCLA đã cho rằng mẫu đá này đã có từ 3.5 tỉ năm trước.Xem thêm ở Is this life?. Nếu đúng, đây có thể là hình thái sự sống đầu tiên trên Trái Đất. Nghiên cứu về nguồn gốc sự sống là một trong những lĩnh vực được biết đến rất hạn chế mặc dầu hầu hết những hiểu biết của con người về bộ môn sinh học và thế giới tự nhiên là dựa trên nó. Mặc dù công việc nghiên cứu về lĩnh vực này rất chậm nhưng nó luôn luôn thu hút sự chú ý của nhiều người bởi vì đây là một câu hỏi rầt lớn và rất khó.
Một số những sự kiện đã cho chúng ta biết một phần điều kiện tạo nên sự sống, nhưng cơ chế bên trong tạo nên sự sống vẫn là một điều bí ẩn. Những tư tưởng về sự sống đầu tiên: Aristotle, Pasteur, Darwin, Oparin Vào thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên, Aristotle đã trình bày dựa trên những điều mà con người thời đó biết được, ít nhất là ở châu Âu, rằng những vật thể sống phát sinh từ những vật thể không sống. Ví dụ như bọ chét và chuột phát sinh từ những đống rác cũ hay bột mì, những con giòi và ruồi trong thịt thối, rệp trong sương. Cuộc sống, nói ngắn gọn hơn, là bắt nguồn từ sự phát triển tự nhiên.
Một số những sự kiện đã cho chúng ta biết một phần điều kiện tạo nên sự sống, nhưng cơ chế bên trong tạo nên sự sống vẫn là một điều bí ẩn. Những tư tưởng về sự sống đầu tiên: Aristotle, Pasteur, Darwin, Oparin Vào thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên, Aristotle đã trình bày dựa trên những điều mà con người thời đó biết được, ít nhất là ở châu Âu, rằng những vật thể sống phát sinh từ những vật thể không sống. Ví dụ như bọ chét và chuột phát sinh từ những đống rác cũ hay bột mì, những con giòi và ruồi trong thịt thối, rệp trong sương. Cuộc sống, nói ngắn gọn hơn, là bắt nguồn từ sự phát triển tự nhiên.
Những nhà khoa học đầu thế kỉ 18 đã lật đổ những học thuyết của Aristotle, nhưng phải đến những thí nghiệm của Louis Pasteur vào năm 1862 người ta mới chắc chắn rằng một nơi đã được vô trùng thì sẽ vĩnh viễn không có bất cứ sinh vật nào phát sinh trong nó được nữa. Ngoài ra ông cũng cho rằng sự sống chỉ có thể phát sinh từ những cơ thể sống phức tạp khác. Những công trình của Pasteur có thể được tóm tắt trong một định luật mà ngày nay chính là nền tảng của thuyết tiến hóa hiện đại: Định luật phát sinh sinh vật: "Mọi cuộc sống đều bắt đầu từ trứng" (nguyên bản tiếng Latinh omne vivum ex ovo).
Ngành khoa học sinh vật hiện đại đang phải đương đầu với một câu hỏi cao hơn: sự sống bắt nguồn "đầu tiên" ở đâu? Pasteur đã chứng minh rằng những sinh vật bậc cao không thể phát sinh một cách tự nhiên. Lý thuyết về tiến hóa của Charles Darwin đã đưa ra một cơ chế để giải thích điều này: sinh vật phải mất hàng ngàn năm để tiến hóa từ những dạng cơ bản, nhưng nó sẽ không mang những đặc điểm như lúc trước nữa, nhưng những sinh vật cơ bản ấy sẽ từ đâu ra?
Darwin rất quan tâm đến vấn đề này. Trong một là thư gửi cho Joseph Dalton Hooker ngày 1 tháng 2 năm 1871, Darwin đã cho rằng sự sống bắt nguồn từ "một cái hồ nước ấm áp có chứa đầy các loại muối ammonia và phosphate, ánh sáng, nhiệt độ, điện,... để các hợp chất protein có thể hình thành và trải qua những biến đổi phức tạp".
Tiếp theo đó, Darwin tìm cách lí giải luận điểm của mình "vào bây giờ, những điều kiện như thế nếu tồn tại sẽ bị biến mất ngay lập tức, ngoại trừ trước khi tất cả các sinh vật sống được sinh ra". Nói một cách khác, sự khai sinh các dạng sống phức tạp có thể một phần nào ngăn cản sự tạo thành những hợp chất hữu cơ cơ bản trên Trái Đất, một điều kiện khiến cho việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên nằm trong phòng thí nghiệm.
Câu trả lời cho câu hỏi của Darwin vẫn nằm ngoải tầm hiểu biết của khoa học hiện đại, và hầu như không có một tiến bộ nào trong lĩnh vực này vào thế kỉ 19. Năm 1936, Aleksandr Ivanovich Oparin, trong cuốn sách nổi tiếng của mình "The Origin of Life on Earth" (Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất), đã cho thấy rằng sự hiện diện của không khí chứa ôxy và những hình thái sống phức tạp đã ngăn cản những chuỗi phản ứng có thể tạo nên sự sống.
Oparin còn cho rằng, một "món súp nguyên thủy" với những hợp chất hữu cơ chỉ có thể tạo thành ở những nơi thiếu ôxy, qua ánh sáng Mặt Trời. Sau đó, ông cho rằng chính những hợp chất hữu cơ cao phân từ hòa tan trong nước thành các dung dịch keo, các dung dịch keo này có thể hòa tan vào nhau tạo thanh những giọt rất nhỏ gọi là coacervate.
Những giọt này có thể lớn lên nhờ hấp thụ các giọt khác, có thể sinh sản khi có những tác động cơ giới chia nó ra làm các hạt nhỏ hơn, do đó nó có các tính chất cơ bản của một tế bào nguyên thủy. Tất cả những học thuyết hiện đại đều khởi đầu từ những luận điểm của Oparin. Những thuyết hình thành sự sống hiện đại Trong thực tế không có một thuyết chuẩn nào về nguồn gốc sự sống. Tuy nhiên, những thuyết được người ta chấp nhận nhiều nhất đều được xây dựng trên một số những phát hiện về cấu trúc phân tử và tế bào.
Chúng bao gồn những luận điểm sau: Ở những điều kiện thích hợp, những vật chất không sống có thể tạo nên những phần cấu tạo nên tế bào sống, như amino acid. Điều này đã được chứng minh qua thí nghiệm Urey-Miller do Stanley L. Miller và Harold C. Urey vào năm 1953. Những hợp chất phospholipid với độ dài thích hợp có thể tạo nên màng lipid, một trong hai thành phần chủ yếu của màng tế bào.
Quá trình trùng hợp của nucleotide trở thành những mạch ARN ngẫu nhiên dẫn đến sự nhân đôi các ribozyme (giả thiết "Thế giới ARN" của Carl Woesoe). Những thúc đẩy tự nhiên về tính xúc tác tốt và tính đa dạng đã tạo nên các ribozyme có khả năng chuyển hóa peptide thành các hạt protein nhỏ. Từ đó, các oligopeptide cùng với ARN tạo thành những chất xúc tác tốt hơn hình thành. Do đó sinh ra các hạt ribosome, làm cho sự hình thành các protein được dễ dàng hơn. Protein đã vượt qua ribozhyme về khả năng xúc tác, và trở thành một lớp màng sinh học cơ bản nhất. Acid nucleic chỉ còn tìm thấy trong các gen tế bào.
Nguồn gốc của các tế bào, trong khi chưa được rõ ràng, có thể gây ra tranh cãi về mức độ quan trọng và thứ tự của bước 2 và 3. Những hợp chất vô cơ và hữu cơ cơ bản nhất tạo nên sự sống là methane (CH4), ammonia (NH3), nước (H2O), hydro sulfua (H2S), carbon dioxit (CO2) và phosphate (PO43-). Cho đến năm 2006, chưa có một ai đã điều chế nhân tạo được một tế bào nguyên mẫu từ những chất cơ bản. Nhà sinh vật học John Desmond Bernal, đã đưa ra ba quá trình mà qua đó sự sống hình thành:
Bước 1: Sự hình thành các monomers Bước 2: Sự hình thành các polymers Bước 3: Sự tiến hóa từ các cấp độ phân tử lên đến tế bào Bernal còn cho rằng: sự chọn lọc tự nhiên như Darwin có thể bắt đầu từ rất sớm, có khi từ giữa giai đoạn 1 và 2. Nguồn gốc của các chất hữu cơ: Miller, Eigen và Wächtershäuser Thí nghiệm Miller (do Harold Urey và học trò của mình là Stanley Miller) thực hiện vào năm 1953 nhằm tái tạo lại những điều kiện được cho rằng có từ lúc Trái Đất xuất hiện. Thí nghiệm sử dụng một hỗn hợp các chất khí như: methane, ammonia và hidro. Tuy nhiên, tỉ lệ của các chất khí trong khí quyển Trái Đất cổ đại vẫn là một điều gây tranh cãi.
Đã có thời người ta nghĩ rằng một lượng ôxy đáng kể trong bầu khí quyển, nhưng chính ôxy lại ngăn cản sự hinh thành các hợp chất hữu cơ. Thí nghiệm cho thấy với những mắt xích hữu cơ đơn giản như amino acid có thể trùng hợp tạo thành một khối vật chất sống. Những chất hữu cơ cơ bản dĩ nhiên là khác xa so với những tế bào có thể tự sinh sản được. Tuy nhiên, trong một môi trường mà chưa có sự sống nào hình thành trước thì các chất hữu cơ này sẽ được tích trữ lại và đến một lúc nào đó sẽ có một sự tiến hóa hóa học. Hơn nữa, sự hình thành các polymer phức tạp từ các monomer dưới những điều kiện như thế không phải là một quá trình dễ dàng.
Bên cạnh những monomer cần thiết, những hỗn hợp có tác dụng ngăn cản sự hình thành các polymer. Hơn nữa, theo như Brooks và Shaw trong cuốn Origins and Development of Living Systems (Nguồn gốc và sự phát triên của các hệ thống sống), không có một dáu hiệu địa lí nào cho thấy tồn tại sự tích tụ các chất hữu cơ như trên: "Nếu có sự tích tụ nào của các chất hữu cơ, chúng ta nên hi vọng sẽ tìm được một nơi nào đó trên Trái Đất mà trầm tich chứa đầy nhưng hợp chất hữu cơ chứa nitơ, acid, chất khử, khoáng lưu huỳnh hay những thứ gì đó tương tự như thế; hay trong những trầm tích đã biến đổi, chúng ta ít nhất cũng phải tìm được những hợp chất nitơ. Thực tế là những chất như thế vẫn còn chưa được tìm thấy trên Trái Đất.
Một số nguồn khác tạo thành các hợp chất hữu cơ phức tạp đã được công nhận: ví dụ như những yếu tố từ ngoài Trái Đất như các thiên thạch. Ví dụ như trong phân tích quang phổ, các hợp chất hữu cơ đã được tìm thấy trong các thiên thạch và cả sao chổi. Vào 2004, một số hợp chất hữu cơ thơm mạch vòng (PAH, viết tắt của polycyclic aromatic hydrocarbon) đã được tìm thấy khi quan sát các tinh vân. Sự hiện diện của PAH chính là nguồn gốc của "thế giới ARN" trong thuyết "thế giới PAH".
Có một số tranh cãi rằng vấn đề chủ yếu vẫn chưa được trả lời bằng thuyết này là làm cách nào mà những phân tử hữu cơ đơn giản lại có thể hình thành nên những hợp chất hữu cơ phức tạp, tương tác với nhau như thế nào để tạo thành một tế bào. Ví dụ, trong một môi trường nước, sự thủy phân các polymer tạo thành các monomer có ưu thế hơn sự ngưng tụ các monomer thành polymer. Thí nghiệm Miller cũng đã tạo thành những chất chắc chắn phải phản ứng với amino acid, từ đó, chấm dứt chuỗi peptide. Vào đầu thập kỉ 1970, một vấn đề lớn được phát hiện về nguồn gốc sự sống đã được phát hiện bởi một nhóm nhà khoa học tại Học viện Max Planck.
Họ tìm các xem xét những bước tạm thời trong phản ứng giữa những chất trong "món súp nguyên thủy" và những bước tạm thời trong các bước nhân đôi các mạch carbon vòng. Kết quả là, trong phân tử carbon mạch vòng, bộ phận lưu trữ thông tin (có thể là ARN) đã tiết ra một chất enzyme, giúp cho sự tạo nên một hệ thống thông tin mới, cứ liên tục như thế cho đến khi một hệ thống thông tin cuối cùng hỗ trợ cho hệ thống đầu tiên. Hệ thống đó được gọi là quasispecies, trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên rồi trở thành một sinh vật. Một trong những bằng chứng của thuyết carbon vòng là sự khám phá ra ARN, trong một số trường hợp có thể chuyển hóa thành ribozymes, một dạng enzyme tạo thành ARN.
Một câu trả lời cho sự biến hóa hóc búa này được đưa ra vào thập kỉ 1980 bởi Günter Wächtershäuser, trong một học thuyết mang tên "thế giới sắt – lưu huỳnh". Trong lý thuyết này, ông ta đã đưa ra một lý thuyết mới về sự tiến hóa sinh hóa học chính là nguồn gốc của sự sống. Hơn nữa, ông ta đã đưa ra một hệ thống rõ ràng về những chứng cứ sinh hóa từ những phản ứng khác tạo ra chất hữu cơ từ những chất khí cơ bản.
Trái với những thí nghiệm của Miller, đòi hỏi rất nhiều những nguồn năng lượng khác như tia UV, sấm sét,... hệ thống Wächtershäuser bao gồm nguồn năng lượng khác: sắt sulfide và một số khoáng chất khác (ví dụ: khoáng pyrite). Năng lượng này được giải phóng từ những quá trình ôxi hóa-khử những sulfide kim loại và là nguồn năng lượng chính để tạo ra những phân tử hữu cơ cơ bản và cả polymer. Vì vậy, có thể cho rằng một hệ thống như thế đã từng tồn tại và đã có một ảnh hưởng đến sự tự nhân đôi, chuyển hóa một cách tích cực tạo thành nhựng thực thể, tiền thân của những sinh vật ngày nay.
Cuốn sách Peptides by activation of amino acids with CO on (Ni,Fe)S surfaces: implications for the origin of life (Peptide bởi sự hoạt hóa với carbon oxide trên bề mặt (Ni,Fe)S: sự liên quan đến nguồn gốc sự sống) của ông xuất bản năm 1998 đã được đánh giá là thiếu tính khách quan do không đưa vào những chất hữu cơ mà những nhà khoa học khác cho là sẽ phản ứng với nhau hay bền. Sửa đổi mới nhất trong lý thuyết "thế giới sắt – lưu huỳnh" đã được đưa ra bởi William Martin và Michael Russell vào năm 2002. Theo như nghiên cứu của họ thì, phân tử đầu tiên của sự sống có thể đã được hình thành trong những mạch khoáng dưới đáy biển. Đây là một nơi có rất nhiều những khoáng chất có gốc sulfide được phun ra rồi đóng rắn lại tạo thành một hệ thống các hang động ngầm rất nhỏ.
Do đó, hệ thống này có thể giải quyết những yếu điểm trong học thuyết Wächtershäuser. Những hang động nhỏ được tạo ra là một cách để tập trung các chất được tổng hợp thành, do đó có nhiều khả năng tạo được các chất hữu cơ cấp cao. Nhiệt độ trong những mạch khoáng cao chênh lệch với nhiệt độ thấp bên ngoài cho phép tạo nên một số nơi những vùng mà phản ứng thực hiện hiệu quả hơn những vùng khác (monomer ở vùng nóng, polymer ở vùng lạnh). Dòng hải lưu qua vùng mạch khoáng khi đi ngang qua những hang động nhỏ cũng một phần làm sạch những nguồn nguyên liệu đã hết và cung cấp thêm nguồn nguyên liệu mới.
Mô hình đó cho phép một chuỗi bước tiến liên tiếp nhau nhằm tạo nên sự tiến hóa ở mức độ tế bào (hóa học, monomer, oligomer, peptide, protein, ARN, ribonucleoprotein, ADM) trong một cấu trúc nhỏ làm dễ dàng thay đổi giữa những bước phát triển. Sự tạo thành lipid có nghĩa là đã "đóng cửa" các tế bào khỏi những tác nhân bất lợi, không cần thiết từ môi trường, cho đến khi tất cả những chức năng cơ bản của tế bào được thiết lập. Bước phát triển kế tiếp là sự tổng hợp các màng lipid cuối cùng cho phép các cơ thể sống, cuối cùng cho phép các vật sống di chuyển dời khỏi những hệ thống hang động nhỏ để bắt đầu cuộc sống của riêng mình.
Một trong những vấn đề còn chưa giải quyết được đó chính là "tính hướng". Ví dụ: tất cả những monomer đều có quay về một phía (amino acid quay về phía tay trái, nucleid acid quay về phía tay phải). Tính hướng rất cần thiết cho cấu trúc các ribozyme (và ngay cả protein). Nguồn gốc của tính hướng có lẽ chỉ đơn giản được giải thích bằng tính không đối xứng của những phân tử đầu tiên theo ngẫu nhiên và tất cả những phân tử sau đều giống như thế. Một số nghiên cứu năm 2003 của các nhà khoa học tại Đại học Perdue cho thấy serine (một amino acid) có thể chính là nguồn gốc của tính không đối xứng của các phân tử hữu cơ.
Serine tạo thành một liên kết mạnh các phân tử amino acid khác khiến chúng đều quay theo một hướng khiến 8 phân tử amino acid tiếp theo sẽ cùng quay trái hay cùng quay phải. Tuy nhiên, làm cách nào mà lại có nhiều phân tử serine quay trái như thế thì vẫn còn là một điều bí ẩn: làm cách nào mà phân tử tạo bởi sinh vật hầu hết chỉ quay về một phía trong khi hầu hết chúng là không đối xứng. [ẩn] x • t • s
Ngành khoa học sinh vật hiện đại đang phải đương đầu với một câu hỏi cao hơn: sự sống bắt nguồn "đầu tiên" ở đâu? Pasteur đã chứng minh rằng những sinh vật bậc cao không thể phát sinh một cách tự nhiên. Lý thuyết về tiến hóa của Charles Darwin đã đưa ra một cơ chế để giải thích điều này: sinh vật phải mất hàng ngàn năm để tiến hóa từ những dạng cơ bản, nhưng nó sẽ không mang những đặc điểm như lúc trước nữa, nhưng những sinh vật cơ bản ấy sẽ từ đâu ra?
Darwin rất quan tâm đến vấn đề này. Trong một là thư gửi cho Joseph Dalton Hooker ngày 1 tháng 2 năm 1871, Darwin đã cho rằng sự sống bắt nguồn từ "một cái hồ nước ấm áp có chứa đầy các loại muối ammonia và phosphate, ánh sáng, nhiệt độ, điện,... để các hợp chất protein có thể hình thành và trải qua những biến đổi phức tạp".
Tiếp theo đó, Darwin tìm cách lí giải luận điểm của mình "vào bây giờ, những điều kiện như thế nếu tồn tại sẽ bị biến mất ngay lập tức, ngoại trừ trước khi tất cả các sinh vật sống được sinh ra". Nói một cách khác, sự khai sinh các dạng sống phức tạp có thể một phần nào ngăn cản sự tạo thành những hợp chất hữu cơ cơ bản trên Trái Đất, một điều kiện khiến cho việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên nằm trong phòng thí nghiệm.
Câu trả lời cho câu hỏi của Darwin vẫn nằm ngoải tầm hiểu biết của khoa học hiện đại, và hầu như không có một tiến bộ nào trong lĩnh vực này vào thế kỉ 19. Năm 1936, Aleksandr Ivanovich Oparin, trong cuốn sách nổi tiếng của mình "The Origin of Life on Earth" (Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất), đã cho thấy rằng sự hiện diện của không khí chứa ôxy và những hình thái sống phức tạp đã ngăn cản những chuỗi phản ứng có thể tạo nên sự sống.
Oparin còn cho rằng, một "món súp nguyên thủy" với những hợp chất hữu cơ chỉ có thể tạo thành ở những nơi thiếu ôxy, qua ánh sáng Mặt Trời. Sau đó, ông cho rằng chính những hợp chất hữu cơ cao phân từ hòa tan trong nước thành các dung dịch keo, các dung dịch keo này có thể hòa tan vào nhau tạo thanh những giọt rất nhỏ gọi là coacervate.
Những giọt này có thể lớn lên nhờ hấp thụ các giọt khác, có thể sinh sản khi có những tác động cơ giới chia nó ra làm các hạt nhỏ hơn, do đó nó có các tính chất cơ bản của một tế bào nguyên thủy. Tất cả những học thuyết hiện đại đều khởi đầu từ những luận điểm của Oparin. Những thuyết hình thành sự sống hiện đại Trong thực tế không có một thuyết chuẩn nào về nguồn gốc sự sống. Tuy nhiên, những thuyết được người ta chấp nhận nhiều nhất đều được xây dựng trên một số những phát hiện về cấu trúc phân tử và tế bào.
Chúng bao gồn những luận điểm sau: Ở những điều kiện thích hợp, những vật chất không sống có thể tạo nên những phần cấu tạo nên tế bào sống, như amino acid. Điều này đã được chứng minh qua thí nghiệm Urey-Miller do Stanley L. Miller và Harold C. Urey vào năm 1953. Những hợp chất phospholipid với độ dài thích hợp có thể tạo nên màng lipid, một trong hai thành phần chủ yếu của màng tế bào.
Quá trình trùng hợp của nucleotide trở thành những mạch ARN ngẫu nhiên dẫn đến sự nhân đôi các ribozyme (giả thiết "Thế giới ARN" của Carl Woesoe). Những thúc đẩy tự nhiên về tính xúc tác tốt và tính đa dạng đã tạo nên các ribozyme có khả năng chuyển hóa peptide thành các hạt protein nhỏ. Từ đó, các oligopeptide cùng với ARN tạo thành những chất xúc tác tốt hơn hình thành. Do đó sinh ra các hạt ribosome, làm cho sự hình thành các protein được dễ dàng hơn. Protein đã vượt qua ribozhyme về khả năng xúc tác, và trở thành một lớp màng sinh học cơ bản nhất. Acid nucleic chỉ còn tìm thấy trong các gen tế bào.
Nguồn gốc của các tế bào, trong khi chưa được rõ ràng, có thể gây ra tranh cãi về mức độ quan trọng và thứ tự của bước 2 và 3. Những hợp chất vô cơ và hữu cơ cơ bản nhất tạo nên sự sống là methane (CH4), ammonia (NH3), nước (H2O), hydro sulfua (H2S), carbon dioxit (CO2) và phosphate (PO43-). Cho đến năm 2006, chưa có một ai đã điều chế nhân tạo được một tế bào nguyên mẫu từ những chất cơ bản. Nhà sinh vật học John Desmond Bernal, đã đưa ra ba quá trình mà qua đó sự sống hình thành:
Bước 1: Sự hình thành các monomers Bước 2: Sự hình thành các polymers Bước 3: Sự tiến hóa từ các cấp độ phân tử lên đến tế bào Bernal còn cho rằng: sự chọn lọc tự nhiên như Darwin có thể bắt đầu từ rất sớm, có khi từ giữa giai đoạn 1 và 2. Nguồn gốc của các chất hữu cơ: Miller, Eigen và Wächtershäuser Thí nghiệm Miller (do Harold Urey và học trò của mình là Stanley Miller) thực hiện vào năm 1953 nhằm tái tạo lại những điều kiện được cho rằng có từ lúc Trái Đất xuất hiện. Thí nghiệm sử dụng một hỗn hợp các chất khí như: methane, ammonia và hidro. Tuy nhiên, tỉ lệ của các chất khí trong khí quyển Trái Đất cổ đại vẫn là một điều gây tranh cãi.
Đã có thời người ta nghĩ rằng một lượng ôxy đáng kể trong bầu khí quyển, nhưng chính ôxy lại ngăn cản sự hinh thành các hợp chất hữu cơ. Thí nghiệm cho thấy với những mắt xích hữu cơ đơn giản như amino acid có thể trùng hợp tạo thành một khối vật chất sống. Những chất hữu cơ cơ bản dĩ nhiên là khác xa so với những tế bào có thể tự sinh sản được. Tuy nhiên, trong một môi trường mà chưa có sự sống nào hình thành trước thì các chất hữu cơ này sẽ được tích trữ lại và đến một lúc nào đó sẽ có một sự tiến hóa hóa học. Hơn nữa, sự hình thành các polymer phức tạp từ các monomer dưới những điều kiện như thế không phải là một quá trình dễ dàng.
Bên cạnh những monomer cần thiết, những hỗn hợp có tác dụng ngăn cản sự hình thành các polymer. Hơn nữa, theo như Brooks và Shaw trong cuốn Origins and Development of Living Systems (Nguồn gốc và sự phát triên của các hệ thống sống), không có một dáu hiệu địa lí nào cho thấy tồn tại sự tích tụ các chất hữu cơ như trên: "Nếu có sự tích tụ nào của các chất hữu cơ, chúng ta nên hi vọng sẽ tìm được một nơi nào đó trên Trái Đất mà trầm tich chứa đầy nhưng hợp chất hữu cơ chứa nitơ, acid, chất khử, khoáng lưu huỳnh hay những thứ gì đó tương tự như thế; hay trong những trầm tích đã biến đổi, chúng ta ít nhất cũng phải tìm được những hợp chất nitơ. Thực tế là những chất như thế vẫn còn chưa được tìm thấy trên Trái Đất.
Một số nguồn khác tạo thành các hợp chất hữu cơ phức tạp đã được công nhận: ví dụ như những yếu tố từ ngoài Trái Đất như các thiên thạch. Ví dụ như trong phân tích quang phổ, các hợp chất hữu cơ đã được tìm thấy trong các thiên thạch và cả sao chổi. Vào 2004, một số hợp chất hữu cơ thơm mạch vòng (PAH, viết tắt của polycyclic aromatic hydrocarbon) đã được tìm thấy khi quan sát các tinh vân. Sự hiện diện của PAH chính là nguồn gốc của "thế giới ARN" trong thuyết "thế giới PAH".
Có một số tranh cãi rằng vấn đề chủ yếu vẫn chưa được trả lời bằng thuyết này là làm cách nào mà những phân tử hữu cơ đơn giản lại có thể hình thành nên những hợp chất hữu cơ phức tạp, tương tác với nhau như thế nào để tạo thành một tế bào. Ví dụ, trong một môi trường nước, sự thủy phân các polymer tạo thành các monomer có ưu thế hơn sự ngưng tụ các monomer thành polymer. Thí nghiệm Miller cũng đã tạo thành những chất chắc chắn phải phản ứng với amino acid, từ đó, chấm dứt chuỗi peptide. Vào đầu thập kỉ 1970, một vấn đề lớn được phát hiện về nguồn gốc sự sống đã được phát hiện bởi một nhóm nhà khoa học tại Học viện Max Planck.
Họ tìm các xem xét những bước tạm thời trong phản ứng giữa những chất trong "món súp nguyên thủy" và những bước tạm thời trong các bước nhân đôi các mạch carbon vòng. Kết quả là, trong phân tử carbon mạch vòng, bộ phận lưu trữ thông tin (có thể là ARN) đã tiết ra một chất enzyme, giúp cho sự tạo nên một hệ thống thông tin mới, cứ liên tục như thế cho đến khi một hệ thống thông tin cuối cùng hỗ trợ cho hệ thống đầu tiên. Hệ thống đó được gọi là quasispecies, trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên rồi trở thành một sinh vật. Một trong những bằng chứng của thuyết carbon vòng là sự khám phá ra ARN, trong một số trường hợp có thể chuyển hóa thành ribozymes, một dạng enzyme tạo thành ARN.
Một câu trả lời cho sự biến hóa hóc búa này được đưa ra vào thập kỉ 1980 bởi Günter Wächtershäuser, trong một học thuyết mang tên "thế giới sắt – lưu huỳnh". Trong lý thuyết này, ông ta đã đưa ra một lý thuyết mới về sự tiến hóa sinh hóa học chính là nguồn gốc của sự sống. Hơn nữa, ông ta đã đưa ra một hệ thống rõ ràng về những chứng cứ sinh hóa từ những phản ứng khác tạo ra chất hữu cơ từ những chất khí cơ bản.
Trái với những thí nghiệm của Miller, đòi hỏi rất nhiều những nguồn năng lượng khác như tia UV, sấm sét,... hệ thống Wächtershäuser bao gồm nguồn năng lượng khác: sắt sulfide và một số khoáng chất khác (ví dụ: khoáng pyrite). Năng lượng này được giải phóng từ những quá trình ôxi hóa-khử những sulfide kim loại và là nguồn năng lượng chính để tạo ra những phân tử hữu cơ cơ bản và cả polymer. Vì vậy, có thể cho rằng một hệ thống như thế đã từng tồn tại và đã có một ảnh hưởng đến sự tự nhân đôi, chuyển hóa một cách tích cực tạo thành nhựng thực thể, tiền thân của những sinh vật ngày nay.
Cuốn sách Peptides by activation of amino acids with CO on (Ni,Fe)S surfaces: implications for the origin of life (Peptide bởi sự hoạt hóa với carbon oxide trên bề mặt (Ni,Fe)S: sự liên quan đến nguồn gốc sự sống) của ông xuất bản năm 1998 đã được đánh giá là thiếu tính khách quan do không đưa vào những chất hữu cơ mà những nhà khoa học khác cho là sẽ phản ứng với nhau hay bền. Sửa đổi mới nhất trong lý thuyết "thế giới sắt – lưu huỳnh" đã được đưa ra bởi William Martin và Michael Russell vào năm 2002. Theo như nghiên cứu của họ thì, phân tử đầu tiên của sự sống có thể đã được hình thành trong những mạch khoáng dưới đáy biển. Đây là một nơi có rất nhiều những khoáng chất có gốc sulfide được phun ra rồi đóng rắn lại tạo thành một hệ thống các hang động ngầm rất nhỏ.
Do đó, hệ thống này có thể giải quyết những yếu điểm trong học thuyết Wächtershäuser. Những hang động nhỏ được tạo ra là một cách để tập trung các chất được tổng hợp thành, do đó có nhiều khả năng tạo được các chất hữu cơ cấp cao. Nhiệt độ trong những mạch khoáng cao chênh lệch với nhiệt độ thấp bên ngoài cho phép tạo nên một số nơi những vùng mà phản ứng thực hiện hiệu quả hơn những vùng khác (monomer ở vùng nóng, polymer ở vùng lạnh). Dòng hải lưu qua vùng mạch khoáng khi đi ngang qua những hang động nhỏ cũng một phần làm sạch những nguồn nguyên liệu đã hết và cung cấp thêm nguồn nguyên liệu mới.
Mô hình đó cho phép một chuỗi bước tiến liên tiếp nhau nhằm tạo nên sự tiến hóa ở mức độ tế bào (hóa học, monomer, oligomer, peptide, protein, ARN, ribonucleoprotein, ADM) trong một cấu trúc nhỏ làm dễ dàng thay đổi giữa những bước phát triển. Sự tạo thành lipid có nghĩa là đã "đóng cửa" các tế bào khỏi những tác nhân bất lợi, không cần thiết từ môi trường, cho đến khi tất cả những chức năng cơ bản của tế bào được thiết lập. Bước phát triển kế tiếp là sự tổng hợp các màng lipid cuối cùng cho phép các cơ thể sống, cuối cùng cho phép các vật sống di chuyển dời khỏi những hệ thống hang động nhỏ để bắt đầu cuộc sống của riêng mình.
Một trong những vấn đề còn chưa giải quyết được đó chính là "tính hướng". Ví dụ: tất cả những monomer đều có quay về một phía (amino acid quay về phía tay trái, nucleid acid quay về phía tay phải). Tính hướng rất cần thiết cho cấu trúc các ribozyme (và ngay cả protein). Nguồn gốc của tính hướng có lẽ chỉ đơn giản được giải thích bằng tính không đối xứng của những phân tử đầu tiên theo ngẫu nhiên và tất cả những phân tử sau đều giống như thế. Một số nghiên cứu năm 2003 của các nhà khoa học tại Đại học Perdue cho thấy serine (một amino acid) có thể chính là nguồn gốc của tính không đối xứng của các phân tử hữu cơ.
Serine tạo thành một liên kết mạnh các phân tử amino acid khác khiến chúng đều quay theo một hướng khiến 8 phân tử amino acid tiếp theo sẽ cùng quay trái hay cùng quay phải. Tuy nhiên, làm cách nào mà lại có nhiều phân tử serine quay trái như thế thì vẫn còn là một điều bí ẩn: làm cách nào mà phân tử tạo bởi sinh vật hầu hết chỉ quay về một phía trong khi hầu hết chúng là không đối xứng. [ẩn] x • t • s
Charles Darwin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Darwin (định hướng).
Charles Robert Darwin | |
---|---|
Ở tuổi 51, Charles Darwin xuất bản cuốn Về nguồn gốc các loài. | |
Sinh | 12 tháng 2, 1809 Mount House, Shrewsbury, Shropshire, Anh |
Mất | 19 tháng 4, 1882 (73 tuổi) Down House, Kent, Anh |
Nơi cư ngụ | Anh |
Dân tộc | Anh |
Ngành | Nhà tự nhiên |
Nơi công tác | Hội Địa lý Hoàng gia |
Học trường | Đại học Edinburgh Đại học Cambridge |
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ | Adam Sedgwick |
Nổi tiếng vì | Nguồn gốc muôn loài Chọn lọc tự nhiên |
Giải thưởng | Royal Medal (1853) Huy chương Wollaston (1859) Huy chương Copley (1864) |
Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Nếu như sự tiến hóa được cộng đồng các nhà khoa học và công chúng chấp nhận ở thời đại Darwin, thì lý thuyết chọn lọc của ông trong những năm 1930 được xem như lời giải thích chính yếu cho quá trình này, và ngày nay đã trở thành nền tảng cho lý thuyết tiến hóa hiện đại. Khám phá của Darwin là lý thuyết thống nhất cho các ngành khoa học sinh vật vì có thể đưa ra lời giải thích duy lý cho sự đa dạng loài.
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ.Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Trong thời gian học ở Đại học Edingburgh, Darwin bỏ bê việc học y khoa để tìm hiểu những loài động vật biển có xương sống. Sau đó ông học ở Đại học Cambridge, ở đây người ta khuyến khích đam mê nghiên cứu khoa học. Trong suốt chuyến hành trình năm năm sau đó ông có những quan sát và lý thuyết ủng hộ cho ý tưởng thống nhất sinh học của Charles Lyell. Ông củng trở thành tác giả nổi tiếng sau khi xuất bản nhật ký về chuyến hải hành. Tự vấn về sự phân bố của các loài hoang dã và các hóa thạch theo phân vùng địa lý, Darwin đã tìm hiểu về sự biến đổi hình thái của các loài và phát triển lý thuyết chọn lọc tự nhiên vào năm 1838. Ông hoàn thành lý thuyết vào năm 1858. Khi đó Alfred Russel Wallace gởi đến ông bài luận cũng về ý tưởng như vậy. Sau đó cả hai cùng hợp tác để xuất bản lý thuyết này.
Cuốn sách Nguồn Gốc Muôn Loài (On the Origin of Species, 1859) của ông nói rằng tiến hóa qua các thế hệ là do biến dị và điều này cung cấp lời giải thích khoa học cho sự đa dạng trong tự nhiên.
Ông kiểm định sự tiến hóa của loài người và chọn lọc giới tính trong các cuốn Dòng dõi của Con người (The Descent of Man), Quá trình Chọn lọc Liên quan đến Giới tính (Selection in Relation to Sex), sau đó là Biểu lộ Cảm xúc ở Con người và Loài vật (The Expression of Emotions in Man and Animals). Những nghiên cứu của ông về thực vật được xuất bản trong một loạt cuốn sách. Cuốn cuối cùng của ông là về các loài địa côn trùng và ảnh hưởng của chúng đối với đất.
Ông kiểm định sự tiến hóa của loài người và chọn lọc giới tính trong các cuốn Dòng dõi của Con người (The Descent of Man), Quá trình Chọn lọc Liên quan đến Giới tính (Selection in Relation to Sex), sau đó là Biểu lộ Cảm xúc ở Con người và Loài vật (The Expression of Emotions in Man and Animals). Những nghiên cứu của ông về thực vật được xuất bản trong một loạt cuốn sách. Cuốn cuối cùng của ông là về các loài địa côn trùng và ảnh hưởng của chúng đối với đất.
Để ghi nhận công lao to lớn của Darwin, ông là một trong năm người không thuộc Hoàng gia Anh của thế kỷ 19 được cử hành quốc tang và được chôn ở Westminster Abbey, cạnh mộ của John Herschel và Isaac Newton.
Mục lục |
Tuổi thơ và quá trình học tập
Charles Robert Darwin sinh ngày 12 tháng Hai năm 1809 tại Shrewbury, Shropshire, nước Anh. Darwin là con kế út trong gia đình khá giả có sáu người con. Cha ông là bác sĩ và là nhà tài chính tên Robert Darwin, mẹ ông là Susannah Darwin. Ngay từ lúc tám tuổi, Charles đã được biết đến lịch sử tự nhiên và sưu tập. Tháng bảy năm 1817 mẹ ông qua đời. Từ tháng chín năm 1818 ông cùng anh trai học ở ngôi trường gần nhà.
Mùa hè năm 1825 Darwin làm bác sĩ tập sự cho cha ông để chữa trị những bệnh nhân nghèo ở Shropshire. Sau đó vào tháng mười ông cùng anh trai đến Đại học Edingburgh. Ông không thích những bài giảng và phẫu thuật nên bỏ bê việc học hành. Ông học việc nhồi xác động vật (taxidermy) từ John Edmonstone, một nô lệ da đen được trả tự do mà ông mô tả là "rất dễ chịu và thông minh".
Năm thứ hai ông tham gia Hội Plinian (Plinian Society), một nhóm sinh viên đam mê lịch sử tự nhiên. Ông giúp Robert Edmund Grant tìm hiểu về giải phẫu và vòng đời của các động vật biển có xương sống. Tháng ba năm 1827 ông trình bày trước Hội Plinian phát hiện của ông về bào tử sống trong vỏ sò thực ra là trứng đĩa (skate leech). Darwin không thích những giờ giảng lịch sử tự nhiên trên lớp vì nó đề cập đến địa lí và tranh luận Neptunism và Plutonism. Ông học cách phân loại thực vật, tham gia sưu tập mẩu vật cho Bảo tàng Đại học - một trong những bảo tàng đồ sộ nhất châu Âu thời này.
Việc ông bỏ vê học hành y khoa làm cha ông nổi giận. Ông bị buộc vào trường Christ’s College, Cambridge để học cử nhân thần học, vì cha ông muốn con trai mình trở thành mục sư Anh giáo và đây là bước đầu để chuẩn bị. Darwin nhập học vào tháng Giêng năm 1828. Tuy nhiên, ông thích cỡi ngựa săn bắn hơn học. Người anh em bà con giới thiệu ông với nhóm sưu tầm bọ. Ông hăng hái tham gia và có vài phát hiện được đăng trên tập Minh Họa Côn Trùng Học của Stevens. Ông là bạn thân đồng thời là môn đệ của giáo sư thực vật John Stevens Henslow. Ông có cơ hội gặp những nhà tự nhiên học hàng đầu khác. Mặc dù lơ là việc học nhưng ông cũng tập trung chăm chỉ khi các kỳ thi đến gần. Trong kỳ thi cuối khóa tháng Giêng năm 1831 ông làm bài tốt và đỗ hạng mười trong tổng số 178 sinh viên tốt nghiệp.
Darwin ở Cambridge tới tháng sáu năm đó. Ông học thuyết tự nhiên của Paley - lý thuyết đề cập đến vấn đề thừa kế trong tự nhiên và giải thích thích nghi là tác động của Chúa thông qua những quy luật tự nhiên. Ông đọc cuốn sách mới xuất bản của John Herchel nói về mục đích cao cả nhất của triết học tự nhiên là hiểu những quy luật của nó thông qua lý luận quy nạp dựa trên quan sát. Ông còn đọc cuốn Personal Narrative của Alexander von Humboldt.
Với nhiệt huyết muốn cống hiến cho khoa học, Darwin dự định học xong sẽ đến Tenerife cùng bạn bè để nghiên cứu lịch sử tự nhiên vùng nhiệt đới. Để chuẩn bị cho chuyến đi, ông đã theo học lớp địa lý của Adam Sedgwick, sau đó cùng ông này đi lập bản đồ địa tầng ở Wales trong mùa hè. Ông trở về nhà và nhận được thư giới thiệu của Henslow cho vị trí nhà tự nhiên học trên tàu MHS Beagle đi thám hiểm và vẽ bản đồ bờ biển Nam Mỹ. Cha của Darwin lúc đầu phản đối kế hoạch vì ông cho rằng chuyến đi chỉ lãng phí thời gian. Sau đó, em rể ông thuyết phục để Darwin đi và cuối cùng ông cũng chấp nhận.
Với nhiệt huyết muốn cống hiến cho khoa học, Darwin dự định học xong sẽ đến Tenerife cùng bạn bè để nghiên cứu lịch sử tự nhiên vùng nhiệt đới. Để chuẩn bị cho chuyến đi, ông đã theo học lớp địa lý của Adam Sedgwick, sau đó cùng ông này đi lập bản đồ địa tầng ở Wales trong mùa hè. Ông trở về nhà và nhận được thư giới thiệu của Henslow cho vị trí nhà tự nhiên học trên tàu MHS Beagle đi thám hiểm và vẽ bản đồ bờ biển Nam Mỹ. Cha của Darwin lúc đầu phản đối kế hoạch vì ông cho rằng chuyến đi chỉ lãng phí thời gian. Sau đó, em rể ông thuyết phục để Darwin đi và cuối cùng ông cũng chấp nhận.
Hành trình của tàu Beagle
Chuyến hành trình lập bản đồ bờ biển kéo dài năm năm. Trong suốt thời gian này Darwin dành thời gian ở trên đất liền để tìm hiểu địa lí và sưu tập lịch sử tự nhiên. Ông ghi chép cẩn thận những quan sát và những giả thuyết của mình. Ông thường xuyên gởi những mẩu vật đến Cambridge và thư viết về nhật ký hành trình cho gia đình. [...]. Mặc dù thường xuyên bị say sóng, nhưng đa số ghi chép về động vật học của ông liên quan đến các loài động vật biển có xương sống.
Trong chuyến dừng chân đầu tiên ở St Jago, Darwin phát hiện được nhiều vỏ sò biển trên vách đá núi lửa. Thuyền trưởng FitzRoy đưa ông đập tập một cuốn Địa Lý Cơ Bản của Charles Lyell. Quan sát của Darwin kiểm chứng cho giả thuyết của Charles Lyell nói rằng các vùng đất được nâng lên hoặc hạ xuống qua một khoảng thời gian dài. Darwin hình thành lý thuyết để viết một cuốn sách về địa lý. Đến Brazil, Darwin bị rừng nhiệt đới cuốn hút. Tuy nhiên, cảnh nô lệ ở đây làm ông thấy thương xót.
Ở Punta Alta, Patagonia, ông khám phá hóa thạch của những loài hữu nhũ khổng lồ bị tuyệt chủng trên vách đá bên cạnh những vỏ sò biển hiện đại. Điều này cho thấy rằng những loài này bị tuyệt chủng mà không gặp phải thảm họa hoặc biến đổi khí hậu. Ông nhận dạng được loài Megatherium nhỏ bé, với lớp giáp bằng sừng mà lúc đầu ông thấy giống như phiên bản thu nhỏ của loài ẩmdillos địa phương. Phát hiện này làm nhiều người thích thú khi họ quay về Anh.
Trong quá trình đi sâu vào đất liền để khám phá địa lý và thu thập hóa thạch ông có thêm những hiểu biết về xã hội, chính trị và nhân chủng về người bản địa cũng như thực dân. Đi sâu hơn về phía Nam ông thấy những đồng bằng gồm những lớp đá cuội và vỏ sò nằm liên tiếp nhau. [...]. Ông đọc tiếp tập hai cuốn sách của Lyell. Ông công nhận cách nhìn của Lyell về "trung tâm khởi tạo" của mọi loài. Tuy nhiên, những phát hiện và giả thuyết của ông lại mâu thuẫn với ý tưởng của Lyell về biến đổi dần dần (smooth continuity) và sự tuyệt chủng.
Trong quá trình đi sâu vào đất liền để khám phá địa lý và thu thập hóa thạch ông có thêm những hiểu biết về xã hội, chính trị và nhân chủng về người bản địa cũng như thực dân. Đi sâu hơn về phía Nam ông thấy những đồng bằng gồm những lớp đá cuội và vỏ sò nằm liên tiếp nhau. [...]. Ông đọc tiếp tập hai cuốn sách của Lyell. Ông công nhận cách nhìn của Lyell về "trung tâm khởi tạo" của mọi loài. Tuy nhiên, những phát hiện và giả thuyết của ông lại mâu thuẫn với ý tưởng của Lyell về biến đổi dần dần (smooth continuity) và sự tuyệt chủng.
Trong chuyến đi này của tàu Beagle, có ba người Fuegians được đem về Anh trong một năm và sau đó đưa trở lại để làm nhà truyền giáo. Darwin thấy những người này thân thiện, có văn hóa, trong khi đó những người bản địa là "những thổ dân khốn khổ, thấp kém". Darwin cho rằng sự khác biệt này cho thấy sự tiến bộ về văn hóa chứ không phải do chủng tộc. Khác với những nhà khoa học khác, Darwin nghĩ không có ranh giới bất khả giữa con người và động vật. Sau một năm, nhiệm vụ truyền giáo dừng lại. Một người Fuegian được đặt tên Jemmy Button sống như người bản địa khác, lấy vợ, và không muốn quay lại Anh.
Ở Chilê Darwin gặp một trận động đất. Nhờ vậy ông thấy được vùng đất đã được nhô cao lên và kèm theo nó là các lớp vỏ trai. Trên dãy Andes ông thấy vỏ sò, vài hóa thạch cây cối từng sống trên bãi biển. Ông lập luận rằng khi mặt đất nhô lên thì những biển đảo chìm xuống và các bãi san hô hình thành nên các vòng san hô.
Trên địa vùng Quần đảo Galapagos mới hình thành, Darwin tìm kiếm bằng chứng để chứng minh những loài hoang dã ở đây được bắt nguồn từ tổ tiên "trung tâm sáng tạo". Ông phát hiện vài loài chim nhại giống với loài tìm thấy ở Chile nhưng khác với các loài ở trên các đảo khác. Ông nghe nói những loài rùa có mai khác nhau cho biết chúng từ đảo nào nhưng không sưu tập được. Những con chuột túi và thú mõ vịt ở Úc có hình dạng khác thường làm Darwin nghĩ rằng có hai Tạo hóa riêng biệt. Ông thấy người Úc bản địa "vui tính và dễ chịu". Ông cũng lưu ý sự định cư của dân châu Âu đã tàn phá cuộc sống họ như thế nào.
Tàu Beagle tìm hiểu cách hình thành các vòng san hô của quần đảo Cocos. Điều này cũng giúp cũng cố thêm giả thuyết của Darwin. Thuyền trưởng FitzRoy bắt tay viết nhật ký tàu Beagle. Sau khi đọc nhật ký của Darwin, FitzRoy đề nghị hai người cộng tác để viết chung một cuốn sách. Nhật ký của Darwin được biên tập thành một tập riêng biệt về lịch sử tự nhiên.Đến Mũi Hảo Vọng Darwin và FitzRoy gặp John Herschel, người đã ngợi ca lý thuyết thống nhất của Lyell là giả định về "điều bí ẩn của những bí ẩn, sự thay thế các loài tuyệt chủng bởi các loài khác" là "một nhân tố tương phản với một tiến trình kỳ diệu". Trên đường quay về nước Anh, Darwin ghi chú rằng nếu như những nghi ngờ của ông về chim nhại, rùa và vùng Falkland Island Fox là đúng, thì "những yếu tố này bác bỏ giả thuyết về Loài". Sau đó ông cẩn thận thêm "có thể" trước "bác bỏ". Sau này ông viết những yếu tố này "dường như đem lại ánh sáng cho nguồn gốc các loài".
Thai nghén cho Lý Thuyết Tiến Hóa
Tháng mười hai năm 1835, một năm trước khi trở về Anh, những bức thư của Darwin được thầy của mình là Henslow giới thiệu cho cộng đồng những nhà tự nhiên học. Ông nhanh chóng nổi tiếng. Darwin về đến Anh ngày 2 tháng mười năm 1836. Ông ghé thăm nhà ở Shrewbury để gặp họ hàng của mình, sau đó nhanh chóng đến Cambridge gặp thầy Henslow. Ông gợi ý Darwin tìm những nhà tự nhiên học để phân loại các mẩu sưu tập, chính ông cũng nhận phân loại những mẫu thực vật. Cha của Darwin tài trợ để ông nghiên cứu như nhà khoa học độc lập. Darwin phấn khích tìm khắp các viện nghiên cứu ở Luân Đôn các chuyên gia để phân loại mẫu vật.
Charles Lyell háo hức đến gặp Darwin lần đầu ngày 29 tháng mười. Ông giới thiệu với Darwin nhà giải phẫu Richard Owen, người đang trên đường đến Luân Đôn. Trường Cao đẳng Giải phẫu Hoàng gia (Royal College of Surgeons) nơi Owen nghiên cứu có trang thiết bị để phân tích những mẫu xương hóa thạch Darwin đã thu thập. Owen bất ngờ khi thấy những con lười (sloth) tuyệt chủng, một bộ xương gần hoàn chỉnh (của loài Scelidotherium, lúc bây giờ chưa biết tới), một hộp sọ giống loài gặm nhấm có kích thước sọ hà mã trông như của một con lợn nước (capybara) khổng lồ (của loài Toxodon). Có nhiều mãnh giáp của loài Glyptodon. Những loài bị tuyệt chủng này có mối liên hệ gần gũi với những loài sống ở Nam châu Mỹ.
Darwin đến ở Cambridge vào giữa tháng mười hai để sắp xếp công việc và biên tập lại nhật ký hành trình. Ông viết báo cáo khoa học đầu tiên nói về những vùng đất rộng lớn ở Nam Mỹ đang dần trồi lên. Lyell nhiệt thành giúp đỡ ông trình bày trước Hội Địa lí ở Luân Đôn ngày 4 tháng một năm 1837. Cũng ngày hôm đó, ông trình bày những mẫu vật động vật hữu nhũ và chim cho Hội Động vật Học. Nhà cầm học (ornithologist) John Gould nhận thấy những con chim mà Darwin đã lầm tưởng là những quạ, chim yến hồng, chim mỏ to thực ra là mười hai loài chim sẻ khác nhau. Ngày 17 tháng hai Darwin được bầu làm thành viên Hội Địa lí, nơi mà Lyell đang nắm chức chủ tịch. Lyell giới thiệu những phát hiện của Owen về những hóa thạch Darwin sưu tầm. Ông nhấn mạnh rằng sự thay đổi dần dần của các loài trải qua các vùng địa lý cũng cố cho ý tưởng của ông về thống nhất.
Đầu tháng ba, Darwin chuyển đến Luân Đôn để tiện cho công việc. Ông tham gia cộng đồng các nhà khoa học và savants của Lyell. Ông gặp được Charles babbage, người mô tả Chúa là người lập trình cho các định luật. Lá thư của John Herschel về "bí ẩn của những bí ẩn" của các loài mới hình thành được bàn luận rộng rãi.
Đến giữa tháng bảy năm 1837 Darwin bắt tay viết Sự Biến Đổi của các Loài. Trên trang 36 của cuốn vở tựa là "B" này ông viết "Tôi nghĩ" bên trên cây tiến hóa. Trong lần gặp đầu tiên để trao đổi chi tiết những phát hiện của mình, Gould nói với Darwin những con chim nhại Galápagos trên các hòn đảo là những loài độc lập chứ không chỉ là các biến thể của nhau. Ngoài ra, những con chim hồng tước (wren) thuộc vào họ chim sẽ (finch). Hai con đà điểu cũng thuộc các loài khác nhau. Ngày 14 tháng ba Darwin thông báo rằng sự phân bố của chúng thay đổi đi về phía nam.
Giữa tháng ba Darwin đưa ra giả định là có khả năng "một loài biến đổi thành loài khác" để giải thích sự phân bố theo địa lý của các loài đang sống như đà điểu và các loài đã tuyệt chủng như Macrauchenia (trông như con guanaco khổng lồ). Ông phác họa một nhánh dòng dõi, và sau đó là một nhánh di truyền của một cây tiến hóa đơn lẻ. Với cây tiến hóa này thì "Thật vô nghĩa khi nói một loài vật tiến bộ hơn loài khác", và như vậy là bác bỏ giả thuyết tiến triển tuyến tính độc lập từ dạng này sang dạng khác tiến bộ hơn của Lamarck.
Làm việc quá mức, bệnh tật, hôn nhân
Khi đang tận lực nghiên cứu Sự Biến đổi, Darwin vướng vào các việc khác nữa. Vừa viết Nhật ký Hải hành, ông vừa biên tập và xuất bản các báo cáo khoa học về những mẫu sưu tầm. Được Henslow giúp sức, ông còn giành được phần thưởng 1000 bảng Anh tài trợ cho cuốn sách nhiều tập Động vật học. Darwin hoàn thành cuốn Nhật ký ngày 20 tháng bảy năm 1837 (ngày Nữ hoàng Victoria lên ngôi), sau đó các bằng chứng trong cuốn sách còn phải được sửa chữa lại.
Darwin gặp phải vấn đề sức khỏe do làm việc dưới áp lực. Ngày 20 tháng mười hai ông bị triệu chứng tim đập nhanh. Bác sĩ khuyên ông ngừng làm việc để đến vùng quê nghỉ trong vài tuần. Sau khi về thăm Shrewsbury ông đến họ hàng ở Maer Hall, Staffordshire. Những người ở đây lại quá háo hức muốn ông kể về chuyến đi (trên tàu Beagle) nên ông không được nghỉ ngơi nhiều. Chú Jos của ông chỉ ông xem một mảnh đất có bọt đá biến mất dưới đất mùn. Ông chú nghĩ có thể là do côn trùng đất và điều này gợi ý cho "một lý thuyết mới mẽ và quan trọng" về vai trò của côn trùng trong việc hình thành đất trồng trọt. Darwin trình bày kết quả trước Hội Địa lí vào ngày 1 tháng mười một.
William Whewell thúc giục Darwin nhận chức thư ký Hội Địa lí. Tháng ba năm 1838, sau vài lần từ chối thì cuối cùng Darwin cũng nhận lời. Mặc dù miệt mài viết và biên tập các báo cáo, Darwin cũng tạo nên những tiến bộ đáng kể về thuyết Sự Biến Đổi. Ông tận dụng mọi cơ hội có được để chất vấn các chuyên gia tự nhiên học cũng như những người có kinh nhiệm thực tế như nông dân, người nuôi chim bồ câu... Càng về sau nghiên cứu của ông còn lấy thông tin có từ người thân, con cái, người làm việc nhà, hàng xóm, những người định cư và những người cùng đi trên tàu Beagle hồi trước. Ông còn đưa con người vào giả thuyết của mình. Ngày 28 tháng ba năm 1838 ông thấy một con đười ươi trong sở thú và ghi chú nó có hành động giống như trẻ em.
Do làm việc quá sức, tháng sáu năm đó ông bị đau dạ dày, đau đầu và triệu chứng bệnh tim. Cho đến hết đời, ông liên tục bị hành hạ bởi đau dạ dày, ói, phỏng nặng, tim đập bất thường, run và các bệnh khác. Nguyên nhân bệnh tình của ông đến giờ vẫn không rõ, và những cố gắng điều trị đều không mấy thành công.
Ngày 23 tháng sáu ông đến Scotland để nghỉ ngơi. Đến tháng bảy ông đã hoàn toàn bình phục và quay trở lại Shrewsbury. Bình thường ông hay ghi chú những quan sát về sự sinh sản của động vật nên ông cũng dùng cách này để ghi những ý nghĩ về tiền đồ sự nghiệp. Ông dùng hai mảnh giấy trên đó ghi hai cột "Lấy vợ" và "Không lấy vợ". Điểm lợi bao gồm "bạn đồng hành và là bạn đời khi về già... dù sao cũng hơn vật nuôi", điểm bất lợi là "có ít tiền hơn để mua sách" và "mất quá nhiều thời gian". Sau khi đã có quyết định cho riêng mình ông bàn với cha ông. Họ đến thăm Emma vào ngày 29 tháng bảy. Trái với lời khuyên của cha, ông không ngỏ lời cầu hôn mà chỉ nói với Emma nhứng ý tưởng của ông về Sự Biến Đổi.
Darwin quay lại London và tiếp tục nghiên cứu. Ông đọc cuốn Thảo luận về Nguyên lý của Dân số.Tháng mười năm 1838, tức là mười lăm tháng kể từ khi tôi bắt đầu phân tích có hệ thống, tôi bắt gặp cuốn sách của Malthus bàn về Dân số. Qua quan sát hành vi của động thực vật suốt thời gian dài, tôi đã được biết cuộc đấu tranh sinh tồn hiện diện ở mọi nơi. Nó ngay lập tức làm tôi nảy ra ý nghĩ là trong những hoàn cảnh như vậy những biến dị phù hợp với môi trường sống sẽ được bảo tồn, còn những biến dị bất lợi sẽ bị tiêu diệt. Kết quả của quá trình này là một loài mới ra đời. Vậy là cuối cùng tôi cũng có một lý thuyết để nghiên cứu...
Malthus cho rằng nếu dân số không được kiểm soát thì nó sẽ phát triển theo cấp số nhân và sớm vượt ngưỡng cung lương thực (được biết với khái niệm thảm họa Malthusian). Darwin - với nền tảng kiến thức của mình - đã nhanh chóng nhận ra điều này cũng được áp dụng cho ý tưởng của de Candolle về "cuộc chiến giữa các loài" cây và đấu tranh sinh tồn giữa các loài hoang dã. Điều này giải thích được tại sao số lượng cá thể trong một loài được giử tương đối cân bằng. Các loài luôn sinh sản vượt quá nguồn cung thức ăn, những biến dị thuận lợi có các cơ quan tốt hơn để sinh tồn và được truyền lại cho con cháu của chúng, trong khi đó những biến dị bất lợi sẽ bị mất đi.
Hệ quả là một loài mới được hình thành. Ngày 28 tháng mười hai năm 1838 ông ghi chú lại phát hiện mới mẻ này, và mô tả đó như là việc "chèn" những cấu trúc thích nghi vào những khoảng trống của tự nhiên do những cấu trúc yếu hơn bị loại bỏ đã để lại. Đến giữa tháng mười hai, ông nhận thấy điểm tương đồng giữa việc những nông dân chọn ra những giống gia súc sinh sản tốt nhất với sự chọn ngẩu nhiên từ những cá thể trong Thuyết tự nhiên Malthusian (Malthusian Nature). Mỗi phần của cấu trúc mới đều phù hợp với thực tế và hoàn hảo. Ông thấy sự so sánh này là "phần đẹp đẽ của lý thuyết".
Hệ quả là một loài mới được hình thành. Ngày 28 tháng mười hai năm 1838 ông ghi chú lại phát hiện mới mẻ này, và mô tả đó như là việc "chèn" những cấu trúc thích nghi vào những khoảng trống của tự nhiên do những cấu trúc yếu hơn bị loại bỏ đã để lại. Đến giữa tháng mười hai, ông nhận thấy điểm tương đồng giữa việc những nông dân chọn ra những giống gia súc sinh sản tốt nhất với sự chọn ngẩu nhiên từ những cá thể trong Thuyết tự nhiên Malthusian (Malthusian Nature). Mỗi phần của cấu trúc mới đều phù hợp với thực tế và hoàn hảo. Ông thấy sự so sánh này là "phần đẹp đẽ của lý thuyết".
Darwin cưới Emma Wedgwood. Ngày 11 tháng mười một, ông quay lại Maer và ngỏ lời cầu hôn Emma, lần này ông cũng nói những ý tưởng của mình về Sự Biến Đổi. Cô nhận lời. Những lá thư sau đó cô cho biết mình đánh giá cao sự cởi mở của Darwin khi chia sẻ những điểm khác biệt giữa họ, đồng thời bày tỏ niềm tin sâu sắc của cô vào Unitarrian và lưu ý những nghi ngờ của ông sẽ chia cách họ khi đã qua đời ra sao. Darwin quay lại Luân Đôn để tìm mua nhà và lại bị những căn bệnh hành hạ. Emma viết cho ông nói rằng hãy nghỉ ngơi và lưu ý "Đừng bị bệnh nữa à Charley, cho đến khi em đến sống cùng anh và chăm sóc cho anh". Darwin tìm được căn nhà tên Macaw Cottage ở phố Gower, sau đó chuyển nguyên "bảo tàng" của ông đến đây. Ngày 24 tháng một năm 1839 Darwin được bầu làm Thành viên Hội Hoàng gia.
Darwin cưới Emma Wedgwood ngày 29 tháng hai, ngay sau đó cả hai lên tàu đến ngôi nhà mới của mình ở Luân Đôn. Ông qua đời ngày 19 tháng 4 năm 1882. Vì những cống hiến vượt thời đại của ông với sinh học nói riên và khoa học nói chung, người ta đã mai táng ông ở Westminster Abbey, cạnh mộ của Isaac Newton.
Thành công
Sau chuyến đi huyền thoại vòng quanh thế giới trong 5 năm trời, Charles Darwin đã đi đến một lý thuyết làm chấn động nền tảng khoa học của thế kỉ 19: loài người có họ hàng với loài vượn! Trong cuốn sách "Nguồn gốc muôn loài" (The Origin of Species) ông đã đưa ra một quan điểm có tính chất cách mạng nói rằng tất cả các loài sinh vật, từ con kiến cho đến con voi, đều nằm trong vòng chọn lọc của tự nhiên. Những con vật thích nghi với tự nhiên sẽ tồn tại; những con không thích nghi sẽ bị diệt vong. Nhà thờ và công chúng đã bị sốc nặng qua cuốn sách trên. Họ kêu: "Con người do Chúa trời tạo ra... Con người là loài siêu đẳng, độc nhất vô nhị." Những cuộc tranh cãi bùng lên xoay quanh một quan điểm cốt tử: sự sống trên Trái Đất diễn ra như thế nào. Cuối cùng thế giới khoa học đã đồng ý với Darwin.
Lý thuyết của Darwin ngày nay có lẽ đã được toàn thể cộng đồng khoa học chấp nhận. Thực vậy, những nghiên cứu gần đây đã chứng tỏ rằng loài người xét cho cùng có chung một thủy tổ. Nhưng con người thời ấy cứ tưởng mình là chúa tể sáng thế, mọi giống loài khác đều chịu sự thống trị của mình, và đôi khi còn bị loài người hủy hoại.- Tác phẩm của Charles Darwin tại Dự án Gutenberg; public domain
- Darwin Correspondence Project Full text and notes for complete correspondence to 1867, with summaries of all the rest
- Free LibriVox Audiobook: On the Origin of Species by Means of Natural Selection
- Charles Darwin tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Works by or about Charles Darwin in libraries (WorldCat catalog)
- Bản mẫu:NRA
- Darwin 200: Celebrating Charles Darwin's bicentenary, Natural History Museum
- A Pictorial Biography of Charles Darwin
- Listing of the significant places in Shrewsbury relevant to Darwin’s early life.
- Mis-portrayal of Darwin as a Racist
- "Darwin, Charles Robert". Encyclopædia Britannica (11th). (1911).
- The life and times of Charles Darwin, an audio slideshow, The Guardian, Thursday 12 tháng 2 năm 2009, (3 min 20 sec).
- CBC Digital Archives: Charles Darwin and the Origins of Evolution
- Darwin's Volcano - a short video discussing Darwin and Agassiz' coral reef formation debate
- Darwin's Brave New World - A 3 part drama-documentary exploring Charles Darwin and the significant contributions of his colleagues Joseph Hooker, Thomas Huxley and Alfred Russel Wallace also featuring interviews with Richard Dawkins, David Suzuki, Jared Diamond and Iain McCalman.
- A naturalists voyage around the world Account of the Beagle voyage using animation, in English from Centre national de la recherche scientifique, Paris.
- Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa
- Bách khoa toàn thư mở WikipediaCác cuộc chống đối thuyết tiến hóa bắt đầu kể từ khi các ý tưởng về sự tiến hóa gây được sự chú ý vào thế kỷ 19.[1] Ban đầu, vào năm 1859, khi Charles Darwin phát hành cuốn sách Nguồn gốc muôn loài, học thuyết tiến hóa dựa trên chọn lọc tự nhiên của ông bị cho là trái ngược với các học thuyết khoa học khác, nhưng sau đó nó lại được công nhận rộng rãi bởi cộng đồng khoa học.[2] Trong suốt gần một thế kỷ, các nhà sinh học không bàn cãi về việc theo dõi các quá trình tiến hóa đang diễn ra cũng như là về các học thuyết tiến hóa hiện đại.[3]
Từ đó về sau, hầu như mọi chỉ trích về thuyết tiến hóa đều có nguồn gốc từ tôn giáo hơn là từ cộng đồng khoa học.[4] Mặc dù đã có nhiều tôn giáo thừa nhận sự tồn tại của tiến hóa chẳng hạn như ủng hộ thuyết tiến hóa tạo bởi đấng sáng tạo, vẫn có các tín ngưỡng khác bác bỏ cách giải thích về sự tiến hóa mà thay vào đó là ủng hộ thuyết sáng tạo, một thuyết cho rằng có một vị thần siêu nhiên đã tạo dựng toàn bộ thế giới hiện tại.[5] Cuộc tranh cãi giữa thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa nổ ra sau đó ở Hoa Kỳ đã biến thành cuộc xung khắc giữa tôn giáo và khoa học.Khác với các cuộc chống đối thuyết tiến hóa ban đầu là hoàn toàn mang tính khoa học hoặc hoàn toàn mang tính tôn giáo, các cuộc chống đối gần đây khó phân biệt mang tính chất nào. Các cuộc chống đối như vậy tập trung tấn công vào cơ sở khoa học của thuyết tiến hóa, với mục tiêu là ngăn chặn việc dạy thuyết tiến hóa như là một sự thật và ngăn chặn việc phổ biến "chủ nghĩa duy vật vô thần".[6]Thuyết sáng tạo hiện đại đã được hình thành bởi các cuộc vận động như Khoa học về Thuyết sáng tạo, Thuyết sáng tạo tân thời, và Thiết kế thông minh vốn biện hộ cho rằng ý tưởng về sự sống được "kiến tạo" bởi một vị Thần hay bởi một thứ có trí tuệ thì cũng mang tính khoa học như thuyết tiến hóa và do đó cần phải được dạy trong các trường công. Các tranh cãi chống lại thuyết tiến hóa từ đó đã lan rộng, trong đó bao gồm cả việc chống lại các bằng chứng tiến hóa, phương pháp luận, tính hợp lý, đạo đức, và sự thừa nhận trong khoa học. Tuy vậy, cộng đồng khoa học không chấp nhận các cuộc chống đối đó bởi vì chúng hoàn toàn không đúng đắn, trích dẫn các câu của những người bôi nhọ để diễn dịch sai ý phương pháp khoa học, thiếu các bằng chứng và các quy luật vật lý cơ bản.[7]Trong khi các cuộc chống đối xuất phát chủ yếu từ Hoa Kỳ thì tín ngưỡng về thuyết sáng tạo lại lan rộng ra ở thế giới Hồi Giáo,[8] Nam Phi và Ấn Độ[9], ở một số nơi ít hơn là Úc, New Zealand, Anh và Canada.[10]
Mục lục
Định nghĩa sự tiến hóa
Một trong những điều dễ gây nhầm lẫn trong cuộc tranh luận giữa thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa là định nghĩa về tiến hóa. Theo sinh học, tiến hóa là các thay đổi về di truyền trong các quần thể sinh vật qua nhiều thế hệ liên tiếp nhau. Tuy vậy, thuật ngữ này lại mang nhiều nghĩa khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau, từ tính toán tiến hóa đến tiến hóa cấp độ phân tử, tiến hóa văn hóa xã hội, tiến hóa sao và cho đến tiến hóa thiên hà. Ngoài ra, nó còn có thể dùng để ám chỉ tiến hóa siêu hình học, tiến hóa tinh thần, hay bất kỳ quan điểm triết học tiến hóa nào. Khi tiến hóa sinh học và các quá trình tiến hóa khác bị gọi chung là một, sai lầm có thể xảy ra, chẳng hạn là phát biểu cho rằng thuyết tiến hóa hiện đại nói về cả nguồn gốc sự sống lẫn Big Bang.[11]Trong văn nói thông thường, tiến hóa có thể chỉ đến bất kỳ dạng phát triển tiến bộ nào, và thường bao hàm ý nghĩa tiến bộ từ từ; như vậy tiến hóa được hiểu như là một quá trình làm tăng chất lượng hay độ phức tạp. Khi định nghĩa thông thường này dùng sai trong tiến hóa sinh học sẽ dễ dẫn tới các hiểu lầm. Ví dụ, ý tưởng về sự thoái hóa (tiến hóa "lùi") là kết quả của suy nghĩ sai lầm cho rằng tiến hóa là một quá trình có hướng hay có một mục tiêu cụ thể (xem thêm thuyết khai sinh chính thống). Trong thực tế, quá trình tiến hóa của một loài sinh vật không có "mục tiêu" nào khác hơn là làm tăng khả năng tồn tại và sinh sản trong môi trường sống của chúng; và chính sự thích ứng này chỉ được xác định trong môi trường này. Các nhà sinh học không cho rằng bất kỳ một loài nào, chẳng hạn như loài người, tiến hóa cao hơn hay tiến bộ hơn các loài khác. Một số thông tin đưa ra đã bị chỉ trích vì có xu hướng đánh giá các loài sinh vật khác dựa trên tiêu chuẩn loài người siêu đẳng thay vì các tiêu chuẩn khách quan.[12]Quá trình tiến hóa không đảm bảo rằng sinh vật sẽ trở nên phức tạp hơn. Mặc dù lịch sử của sự sống dường như đã cho thấy khuynh hướng này, người ta vẫn đặt câu hỏi là liệu khuynh hướng này có thực sự xảy ra hay không, hay liệu đây có phải là một kết luận chưa kể đến sự thật rằng đại đa số sự sống trên trái đất luôn gồm có sinh vật nhân sơ.[13] Theo quan điểm này, sự phức tạp hơn không nhất thiết là kết quả của quá trình tiến hóa mà là kết quả của các tình huống diễn ra quá trình tiến hóa trên Trái Đất, trong đó sự phức tạp hơn thường xảy ra nhiều hơn bởi quá trình chọn lọc tự nhiên. Tùy theo từng hoàn cảnh, mức độ phức tạp của sinh vật có thể tăng hoặc giảm hoặc giữ nguyên; và cả ba xu hướng này đều đã được quan sát thấy trong quá trình tiến hóa.[12]Các thông tin được đưa ra bởi những người theo thuyết sáng tạo thường định nghĩa tiến hóa theo văn nói thông thường thay vì theo khoa học.[14] Kết quả là, nhiều nỗ lực bác bỏ thuyết tiến hóa không đề cập tới những phát hiện về tiến hóa sinh học (xem thêm ngụy biện người rơm).[11][15]Lịch sử
Vào đầu thế kỷ 19, các tư tưởng tiến hóa được chú ý nhiều, đặc biệt là thuyết sự biến đổi các loài được đưa ra bởi Jean-Baptiste Lamarck. Đây là các tư tưởng đã từng bị chống đối về mặt cơ sở khoa học, điển hình nhất bị là chống đối bởi Georges Cuvier cũng như là về mặt chính trị và tôn giáo.[1] Các tư tưởng cho rằng các quy luật tự nhiên chi phối sự phát triển của tự nhiên và xã hội đã thu hút được lượng lớn người quan tâm, trong đó có The Constitution of Man của George Combe năm 1828 và tác phẩm vô danh Vestiges of the Natural History of Creation năm 1844. Vào năm 1859, Charles Darwin xuất bản cuốn Nguồn gốc muôn loài. Trong vòng từ 15 đến 20 năm, ông đã thuyết phục được đa số cộng đồng khoa học rằng tiến hóa theo tổ tiên chung là đúng. Nhưng mặc cho chọn lọc tự nhiên là một thuyết chắc chắn và có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm, quan điểm xem nó là cơ chế chính của sự tiến hóa, nói chung, đã bị bác bỏ.[2]Ban đầu, những cuộc chống đối thuyết tiến hóa của Darwin đều mang tính khoa học hay tôn giáo. Nhưng cuối cùng, mặc dù cơ chế tiến hóa mà Darwin đưa ra - chọn lọc tự nhiên - bị tranh cãi kịch liệt bởi các học thuyết khác như Lamarck và thuyết khai sinh chính thống, những người sống đương thời với Darwin cũng chấp nhận thuyết sự biến đổi các loài nhờ vào các bằng chứng hóa thạch; họ đã lập ra Hội X để bảo vệ học thuyết đó tránh bị tấn công bởi giáo hội và các cá nhân giàu có.[16] Cách giải thích tiến hóa từ từ của Darwin cũng đồng thời đối nghịch với thuyết đại đột biến và thuyết tai biến. Nam tước người Anh Kelvin đã dùng khoa học để chống đối với tiến hóa từ từ dựa trên các đo đạc nhiệt động học của ông để tính tuổi của Trái Đất là vào khoảng từ 24 đến 400 triệu năm tuổi, một con số ước đoán bị phản đối mạnh mẽ bởi các nhà địa chất. Các số liệu này sau đó được điều chỉnh lại vào năm 1907 khi các đo đạc phóng xạ trên đất đá cho thấy Trái Đất có hàng tỷ năm tuổi.[17][18]Quan điểm của Kelvin có thể được xem là một biến thể của tiến hóa hữu thần, nhờ có sự chỉ bảo của thánh thần mà quá trình tiến hóa xảy ra nhanh chóng.[19] Mặt khác, chỉ có riêng cơ chế di truyền mà Darwin đã đưa ra, còn gọi là thuyết mầm, là thiếu các bằng chứng ủng hộ. Vào đầu thế kỷ 20, thuyết mầm được thay thế bằng di truyền Mendel, mở đầu cho sự vươn lên của thuyết tổng hợp tiến hóa hiện đại. Thuyết tổng hợp tiến hóa hiện đại đã được chấp nhận hoàn toàn bởi các nhà sinh học nhờ tìm được các bằng chứng mới như di truyền học, giúp xác nhận các tiên đoán của Darwin là đúng và loại bỏ các học thuyết đối chọi khác.[20]Từ năm 1860 cho đến những năm 1870, Đạo Tin Lành, đặc biệt ở Hoa Kỳ, đột ngột bị hứng chịu "những lời đàm tiếu sâu cay" và những tranh luận về thuyết tiến hóa, trong đó có một bước ngoặt được đánh dấu bởi cái chết của Louis Agassiz vào năm 1873. Cho đến năm 1880, một dạng tiến hóa "theo kiểu Cơ đốc giáo" đã được hưởng ứng.[21] Ở Anh, trong lúc việc xuất bản cuốn The Descent of Man của Darwin vào năm 1871 làm dấy lại cuộc tranh cãi có từ thập niên trước thì giữa những năm 1860 và 1885, Sir Henry Chadwick đã chú ý thấy rằng "những Cơ Đốc nhân có nhiều học thức" kiên quyết chấp nhận thuyết tiến hóa. Điều này làm cho học thuyết tiến hóa "vừa hợp pháp vừa đáng trân trọng" trước năm 1876.[21] Cùng lúc đó, bài thuyết giảng Mối liên hệ giữa tôn giáo và khoa học (1884) của Frederick Temple trình bày lý do thuyết tiến hóa không "thù địch" với tôn giáo đã nhấn mạnh thêm xu hướng này.[22] Sự kiện Temple được bổ nhiệm làm tổng giám mục giáo hội Anh sau đó vào năm 1896 đã cho thấy rằng thuyết tiến hóa đã được chấp nhận rộng rãi trong giáo hội.[21]Trong nhiều thập niên, Công giáo Rôma đã né tránh, không bác bỏ thuyết tiến hóa một cách chính thức. Thế nhưng, khi những người theo Công giáo nghi vấn hay nói rằng thuyết tiến hóa có thể hòa hợp với Kinh thánh sẽ bị vạ tuyệt thông bởi điều này trái ngược với phát hiện của Hội đồng Vatican lần thứ nhất (1869–70) rằng Chúa tạo ra mọi thứ từ cái không có. Vào năm 1950, trong thư Humani Generis gửi cho toàn thể giám mục, giáo hoàng Piô XII đã lần đầu tiên đề cập chính thức và trực tiếp đến thuyết tiến hóa.[23] Ông cho phép truy tìm nguồn gốc loài người trước khi có vật chất sống nhưng không cho phép nghi vấn Adam và Eva hay sự tạo dựng linh hồn. Vào năm 1996, giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố thuyết tiến hóa "còn hơn cả một thuyết" và thừa nhận rằng để hoàn thành một tuyệt tác lớn thì cần phải trải qua một giai đoạn tích lũy dài, nhưng ông lặp lại rằng bất kỳ sự cố gắng nào giải thích linh hồn con người theo vật chất đều "không tương hợp với sự thật về con người".[24]Sự phản kháng của những người theo Hồi giáo, nói chung, là của những người tin vào thuyết tạo dựng đã được ghi rõ trong kinh Qur'an. Mặt khác, cũng có nhiều người người Hồi giáo có học thức chấp nhận một dạng thuyết tiến hóa hữu thần hay được thần thánh chỉ dẫn, theo đó kinh Qur'an củng cố thay vì mâu thuẫn với khoa học. Điều này đã diễn ra khá nhanh vì các trường hồi giáo Madrasah trung cổ đã dạy các tư tưởng của Al-Jahiz, một học giả Hồi giáo sống ở thế kỷ thứ 9, người đã đề xuất các khái niệm tương tự với chọn lọc tự nhiên.[8] Tuy nhiên, thế giới Hồi giáo vẫn còn chậm chấp nhận thuyết tiến hóa khi mà những người đứng đầu bác bỏ triết học duy vật bổ trợ cho thuyết tiến hóa vì cho rằng nó nói sai về nguồn gốc con người và phủ nhận Allah.[8] Các cuộc chống đối sau đó nữa của các học giả Hồi giáo và nhiều tác giả đã phản ánh phần lớn những cuộc chống đối ở phương Tây.[25]Không kể đến sự chấp nhận của các hệ tôn giáo lớn, các cuộc chống đối học thuyết Darwin trước đây hiện vẫn còn đối nghịch với sự tiến hóa. Ý tưởng các loài thay đổi theo thời gian qua quá trình tự nhiên và các loài khác nhau có cùng tổ tiên dường như mâu thuẫn với các dữ kiện Chúa tạo ra thế giới. Những người tin tưởng kinh thánh không thể sai lầm đã gán ghép cho học thuyết Darwin là dị giáo. Lý luận người làm đồng hồ của Paley, một luận cứ thiết kế mà những người đấu tranh cho thuyết sáng tạo vẫn còn dùng, là ví dụ điển hình cho Thần học tự nhiên vào đầu thế kỷ 19. Thần học tự nhiên ban đầu chỉ bao gồm một số các tư tưởng và luận cứ, đến khi học thuyết của Darwin được công bố thì các tư tưởng về tiến hóa hữu thần được bổ sung vào; theo đó tiến hóa được chấp nhận là nguyên nhân thứ yếu có thể nghiên cứu khoa học, còn Chúa vẫn được xác nhận là nguyên nhân chính yếu, có vai trò không rõ rệt trong việc điều khiển quá trình tiến hóa và tạo tác con người.[26] Thần học tự do, môn thần học hiện đại xem Kinh thánh và Torah là những dụ ngôn, cùng với các hệ phái Cơ đốc giáo và Do Thái giáo đã đón nhận quan điểm này, làm xóa nhòa mâu thuẫn giữa thuyết tiến hóa và tôn giáo.Tuy nhiên, trong những năm 1920, những người theo Cơ-đốc giáo nền tảng ở Hoa Kỳ đã biến những cuộc tranh cãi chống lại Thần học tự do về mặt diễn dịch Kinh thánh thành cuộc phản đối việc giảng dạy thuyết tiến hóa vì sợ rằng ‘‘Thuyết tiến hóa của Darwin’’ sẽ dẫn tới chủ nghĩa quân phiệt Đức và là mối đe dọa đối với tôn giáo và đạo đức. Cuộc phản đối này đã hình thành nên cuộc tranh cãi giữa thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa liên quan đến việc những người theo Cơ-đốc bảo thủ ở Hoa Kỳ phản đối việc dạy thuyết tiến hóa ở các trường công. Mặc dù các cuộc chống đối ban đầu đã gạt bỏ thuyết tiến hóa do mâu thuẫn với cách diễn giải Kinh thánh của họ, luận điểm này trở nên vô giá trị sau khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra phán quyết trong vụ kiện Epperson v. Arkansas rằng việc cấm giảng dạy thuyết tiến hóa vì mục đích tôn giáo là vi hiến theo Điều khoản Thành lập trong Hiến pháp sửa đổi lần thứ nhất của Hoa Kỳ.[27]Kể từ đó, các cuộc chống đối thuyết tiến hóa của những người theo thuyết sáng tạo trở nên yếu ớt hơn, họ tạo thêm đủ loại cáo buộc chẳng hạn như cáo buộc rằng thuyết tiến hóa là phi khoa học, xâm phạm tự do tín ngưỡng của họ hay cho rằng việc thừa nhận thuyết tiến hóa cũng là một quan điểm mang tính tôn giáo.[28] Những người theo thuyết sáng tạo đã yêu cầu thay đổi các nguyên tắc dân chủ cho sự công bằng vì theo họ thuyết tiến hóa vẫn còn gây tranh cãi và do đó môn khoa học trong trường phải nên "Dạy về cuộc tranh cãi".[29] Những cuộc chống đối thuyết tiến hóa như vậy cuối cùng trở thành Thiết kế thông minh vào đầu những năm 2000 và hoàn toàn thất bại khi cố gắng đưa nó trở thành một lựa chọn khoa học thay thế thuyết tiến hóa.[30][31]Sự chấp nhận trong khoa học
Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa gần đây thường tập trung tấn công vào tính đúng đắn khoa học,[32][33] hay cố gắng tìm ra ý tưởng thay thế như Thuyết sáng tạo để phản bác lại các phát hiện về thuyết tiến hóa.[34] Những người theo thuyết sáng tạo thường tranh cãi, chẳng hạn, cho rằng thuyết tiến hóa vẫn chưa được chứng minh, không dựa trên thực tế, hay vẫn còn tranh luận.[35]Tính giả thuyết
Những người chỉ trích thuyết tiến hóa quả quyết rằng thuyết tiến hóa "chỉ là thuyết", và kiên quyết rằng các giả thuyết khoa học không phải là tuyệt đối, thuyết tiến hóa chỉ là một quan điểm chứ không phải là một sự thật hay chứng cứ. Điều này cho thấy sự hiểu sai về nghĩa của từ thuyết trong văn phong khoa học: trong văn nói một thuyết là một sự phỏng đoán hay giả định, trong khoa học một thuyết là một cách giải thích giúp đưa ra các tiên đoán có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm hoặc bằng các chứng cứ. Tương tự, Thuyết tiến hóa đề cập đến một cách giải thích về sự đa dạng các loài và tổ tiên chúng và đã được kiểm chứng bằng các chứng cứ khoa học có giá trị cực cao. Một ví dụ xem sự tiến hóa như thuyết là thuyết tổng hợp tiến hóa hiện đại liên quan đến quá trình chọn lọc tự nhiên của Darwin và di truyền Mendel. Như mọi giả thuyết khoa học khác, các nhà khoa học không ngừng tranh luận, kiểm tra, sàng lọc thuyết tổng hợp tiến hóa hiện đại, và nhất trí rằng đó là mô hình duy nhất giải thích thuyết phục các dữ kiện liên quan đến quá trình tiến hóa.[36]Những người chỉ trích cũng phát biểu rằng thuyết tiến hóa cũng không phải là một sự thật.[37] Trong khoa học, một sự thật là một quan sát được thực nghiệm kiểm chứng, tuy vậy, trong văn nói, một sự thật đơn thuần chỉ đến những thứ có bằng chứng rõ ràng. Ví dụ, những thuyết như "trái đất xoay quanh mặt trời" và "các vật rơi bởi trọng lực" thường được xem là "sự thật" mặc dù chúng hoàn toàn mang tính lý thuyết. Do đó, đứng trên quan điểm khoa học, thuyết tiến hóa có thể gọi là một "sự thật" với cùng lý do như của trọng lực: sự tiến hóa là một quá trình có thể quan sát được và xảy ra khi quần thể sinh vật biến đổi di truyền theo thời gian. Nếu xét theo văn nói, thuyết tiến hóa cũng có thể được xem là sự thật bởi nó đã được xây dựng rất vững chắc. Như vậy, các nhà khoa học đều công nhận rộng rãi rằng thuyết tiến hóa vừa là thuyết và vừa là sự thật.[38][39][40]Các cuộc chống đối cũng tạo ra sự mập mờ tương tự cho rằng thuyết tiến hóa "chưa được chứng minh" bởi vì chưa có giả thuyết khoa học nào được xem là hoàn toàn đúng mà chỉ được xác minh bằng các bằng chứng thực nghiệm.[41] Sự phân biệt này cũng đóng một vai trò quan trọng trong triết học khoa học vì nó đề cập đến sự thiếu hụt tính chắc chắn tuyệt đối trong mọi phát biểu mang tính thực nghiệm, không chỉ riêng đối với thuyết tiến hóa. Bằng chứng toàn diện chỉ có thể có trong các ngành khoa học hình thức như logic học và toán học chứ không thể có trong khoa học tự nhiên (thay vào đó thuật ngữ phù hợp hơn là bằng chứng "đúng đắn" hay "đã được kiểm chứng"). Do vậy, nói thuyết tiến hóa chưa được chứng minh có thể đúng nhưng tầm thường, nó không khác gì cáo buộc gọi thuyết tiến hóa chỉ là "thuyết". Tuy nhiên, sự mập mờ càng tăng lên khi nghĩa của từ bằng chứng theo văn nói đơn giản là "chứng cứ thuyết phục", trong trường hợp này các nhà khoa học sẽ quả quyết rằng thuyết tiến hóa "đã được chứng minh".[42]Mức độ chấp nhận
Vào năm 1999, một cuộc phản đối lớn thuyết tiến hóa đã diễn ra ở Kansas theo kiểu tự thuyết phục: thuyết tiến hóa vẫn còn gây tranh cãi và tranh luận.[43] Không như những lý lẽ trước đây của những người theo thuyết sáng tạo tìm cách chấm dứt hoàn toàn việc dạy thuyết tiến hóa, lý lẽ lần này yếu hơn, tuyên bố rằng thuyết tiến hóa còn đang gây tranh cãi và do đó học sinh cần phải được dạy thêm về các quan điểm khác để chúng tự đánh giá và chọn ra quan điểm riêng của mình.[44] Sự kêu gọi công bằng này đã thu hút được những người ủng hộ thuyết sáng tạo ở Hoa Kỳ và nhận được sự tán thành của tổng thống George W. Bush.[31][41][45]Cuộc phản đối này là cơ sở cho việc hình thành chiến dịch "Dạy cuộc tranh cãi" vốn là nỗ lực của hội Cơ đốc Discovery Institute nhằm thúc đẩy việc dạy Thiết kế thông minh trong trường công. Sau đó, nó trở thành một phần quan trọng trong "chiến lược mũi nhọn" của hội, một chiến lược cố gắng làm suy yếu từ từ thuyết tiến hóa để cuối cùng "chuyển hướng từ việc đè bẹp quan điểm thế giới duy vật sang việc tạo ra một môn khoa học có niềm tin mãnh liệt vào thần thánh và Cơ đốc giáo".[29]Các nhà khoa học và các tòa án Hoa Kỳ đã bác bỏ phản đối này vì lý do khoa học không dựa trên sự hưởng ứng số đông mà dựa trên chứng cứ. Sự đồng thuận khoa học của các nhà sinh học chứ không phải ý kiến số đông hay sự công bằng sẽ quyết định tính chấp nhận trong khoa học, và mặc dù thuyết tiến hóa rõ ràng gây tranh cãi trong đấu trường quần chúng, nhưng nó hoàn toàn không gây tranh cãi giữa các chuyên gia trong lĩnh vực.[46]Để đáp trả, những người theo thuyết sáng tạo tiếp tục cự cãi về mức độ ủng hộ thuyết tiến hóa trong khoa học. Từ năm 2001, Hội Discovery Institute đã thu thập được hơn 600 nhà khoa học để ký vào bảng "Tiếng nói bất đồng khoa học với học thuyết Darwin" nhằm cho thấy có một số các nhà khoa học bất đồng với cái mà họ gọi là "Thuyết tiến hóa của Darwin". Bảng tuyên bố này không khẳng định họ không tin hoàn toàn vào thuyết tiến hóa mà bày tỏ sự nghi ngờ về khả năng "đột biến ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên có thể giải thích cho sự phức tạp của sự sống." Một số cuộc thỉnh nguyện ngược lại đã được tiến hành ngay sau đó, trong đó có "Tiếng nói ủng hộ khoa học với học thuyết Darwin" thu thập được hơn 7.000 chữ ký trong bốn ngày, và Dự án Steve, một cuộc thỉnh nguyện để trêu lại, đã thu thập được 1.151 (tính đến ngày 18 tháng 1 năm 2011) nhà khoa học tên "Steve" ủng hộ thuyết tiến hóa.Trong hơn một thế kỷ, dựa trên các phản đối cho rằng thuyết tiến hóa thiếu các chứng cứ đáng tin cậy hay không tuân theo các định luật vật lý, những người theo thuyết sáng tạo đã kêu gào rằng thuyết tiến hóa là "một thuyết đang trong cơn khủng hoảng" và sẽ sớm bị lật đổ.[47] Tuyên bố rằng luận điểm kiến tạo bởi đấng có trí tuệ, hay bất kỳ cách giải thích nào khác theo thuyết sáng tạo cũng thỏa mãn các tiêu chuẩn khoa học cơ bản và phải là một lựa chọn khoa học thay thế thuyết tiến hóa cũng bị các nhà khoa học bác bỏ. Ngay cả khi có chứng cứ chống lại thuyết tiến hóa, nó cũng bị xếp là ngụy biện song đề, là chứng cứ bảo vệ luận điểm kiến tạo bởi đấng có trí tuệ.[45][48]
Một loại chống đối thuyết tiến hóa tương tự nói rằng một số nhân vật hàng đầu trong khoa học - chủ yếu trước thời kỳ hiện đại - đã nghi ngờ hay bác bỏ thuyết tiến hóa.[49] Thường gặp nhất là chuyện hoang đường bắt nguồn từ chuyện quý bà Hope cho rằng Darwin đã "từ bỏ quan điểm" vào lúc cuối đời.[50] Những cuộc chống đối này đều bị bác bỏ vì là ngụy biện lợi dụng người đứng đầu. Ngay cả khi giai thoại này đúng, nó cũng không hề gây ảnh hưởng đến giá trị của thuyết tiến hóa.
Vị thế khoa học
Những người theo thuyết sáng tạo tân thời thường chống đối thuyết tiến hóa vì cho rằng nó không gắn kết với các tiêu chuẩn khoa học thông thường-nghĩa là không đáng tin về mặt khoa học. Họ cũng phản đối rằng môn sinh học tiến hóa không tuân theo phương pháp khoa học, và do đó không nên dạy trong các lớp khoa học, hay ít nhất là phải dạy song song với các quan điểm khác (tức thuyết sáng tạo). Những cuộc chống đối này thường xuyên đả phá bản chất cơ bản của thuyết tiến hóa và phương pháp khoa học.
Bản chất tôn giáo
Các lý lẽ xem thuyết tiến hóa là tôn giáo khá giống với các lý lẽ dùng trong phương pháp so sánh: thuyết tiến hóa và tôn giáo có một hay nhiều điểm chung và do đó thuyết tiến hóa cũng là một tôn giáo. Ví dụ cho các lý lẽ này là các phát biểu cho rằng thuyết tiến hóa dựa trên tín ngưỡng, những người ủng hộ thuyết tiến hóa tôn sùng Darwin như nhà tiên tri, tin mù quáng, bỏ ngoài tai những ý kiến khác.[41][54] Các tuyên bố này đã lan rộng ra trong những năm gần đây khi phong trào của những người theo thuyết sáng tạo tân thời tìm cách tách biệt chính mình khỏi tôn giáo để có thể lợi dụng một phương pháp so sánh chống tôn giáo.[46]Để đáp trả, những người ủng hộ thuyết tiến hóa phản ứng rằng chưa có phát biểu của bất kỳ nhà khoa học nào, bao gồm cả Darwin, được xem là thiêng liêng bất khả xâm phạm bởi vì chính giả thuyết của Darwin cũng từng bị các nhà khoa học bác bỏ và hiệu chỉnh lại qua nhiều năm để hình thành nên Học thuyết Darwin mới và sau đó là thuyết tổng hợp tiến hóa hiện đại[55][56] Tương tự, phát biểu nói rằng thuyết tiến hóa là niềm tin và chưa từng được quan sát thấy cũng bị bác bỏ; thuyết tiến hóa có chứng cứ ủng hộ mạnh mẽ mà không cần đến niềm tin.Nói tóm lại, luận cứ xem thuyết tiến hóa là tôn giáo đã bị bác bỏ bởi vì tôn giáo không được định nghĩa bằng mức độ cuồng tín, mà bằng niềm tin vào tâm linh và sự siêu nhiên. Những người ủng hộ thuyết tiến hóa đã chỉ ra được rằng thuyết tiến hóa không cuồng tín cũng không dựa trên niềm tin, đồng thời cáo buộc những người theo thuyết sáng tạo đã cố tình gây lập lờ tôn giáo theo định nghĩa chính xác và theo cách dùng trong văn nói để ám chỉ đến những thứ dính líu với cuồng tín. Các tòa án Hoa Kỳ cũng đã bác bỏ chống đối này:Giả sử theo như mục đích của cuộc tranh cãi, rằng thuyết tiến hóa là một tôn giáo hay giáo lý tôn giáo, thì biện pháp thi hành sẽ là chấm dứt việc dạy thuyết tiến hóa, không thành lập thêm một tôn giáo khác để chống lại biện pháp đó. Tuy nhiên, theo như luật xét xử đã được thiết lập rõ ràng trước đó, và có thể trong cả ý nghĩa thông thường, thuyết tiến hóa không phải là một tôn giáo và việc dạy thuyết tiến hóa không vi hiến theo Điều khoản Thành lập.[57]
Liên quan đến một tuyên bố khác rằng thuyết tiến hóa là vô thần, những người ủng hộ thuyết sáng tạo cũng thường gộp chung cả hai tuyên bố để miêu tả thuyết tiến hóa là một "tôn giáo vô thần" (xem so với chủ nghĩa nhân văn).[53] Luận điểm chống đối này thường bị tổng quát hóa thành một lời chỉ trích: "khoa học là một tôn giáo vô thần" vì chủ nghĩa tự nhiên theo phương pháp luận chưa được chứng minh, và do đó cũng "dựa trên niềm tin" giống như siêu nhiên và niềm tin vào thần thánh trong thuyết sáng tạo.[58]Không thể chứng minh là sai
Một phát biểu được xem là có khả năng bị chứng minh là sai nếu có một quan sát hay một cuộc kiểm tra cho thấy phát biểu đó là sai. Các cuộc khảo sát khoa học không xem xét các phát biểu không có khả năng bị chứng minh là sai bởi vì không có phương pháp kiểm tra nào có thể thẩm định được độ chính xác của chúng. Những người theo thuyết sáng tạo như Henry M. Morris đã tuyên bố rằng thuyết tiến hóa không có khả năng bị chứng minh là sai. Họ nói rằng bất kỳ quan sát nào cũng đều có thể thuộc ý tưởng tiến hóa, do đó không thể cho thấy được thuyết tiến hóa là sai. Và do vậy, họ tuyên bố thuyết tiến hóa là phi khoa học.[59][60]Tuy nhiên, các nhà khoa học đều xem thuyết tiến hóa có khả năng bị chứng minh là sai nếu các tiên đoán đưa ra mâu thuẫn với chứng cứ. Có một số loại chứng cứ có khả năng chứng minh thuyết tiến hóa là sai, chẳng hạn như dữ liệu hóa thạch không cho thấy sự biến đổi theo thời gian, hay cơ chế ngăn chặn đột biến tích lũy, hay các quan sát cho thấy các loài sinh vật có thể được tạo ra bằng cách tự sinh hay bằng một cách siêu nhiên.[59] Khi khoa học về tiến hóa phát triển, nhiều tư tưởng và nhận định của Darwin đã được chứng minh là sai nhưng đồng thời các tư tưởng trọng tâm cũng được xác nhận là đúng.[61] Hơn nữa, hầu hết các tuyên bố vô căn cứ của thuyết sáng tạo đều cho rằng thuyết tiến hóa đã bị chứng minh là sai.[59] Mặt khác, cách giải thích của những người theo thuyết sáng tạo liên quan đến sự can thiệp trực tiếp của siêu nhiên vào thế giới tự nhiên là không có khả năng bị chứng minh là sai, bởi vì bất kỳ kết quả nghiên cứu hay thí nghiệm nào cũng có thể là hành vi không thể đoán trước được của một vị thần toàn năng.[62]Xem thêm
- Thiết kế thông minh
Chú thích
- ^ a b Johnston, Ian C. (1999). “Section Three: The Origins of Evolutionary Theory”. ... And Still We Evolve. Liberal Studies Department, Malaspina University College. Truy cập 25 tháng 7 năm 2007.
- ^ a b van Wyhe, John (1 tháng 7 năm 2002). “Charles Darwin: gentleman naturalist: A biographical sketch”. The Complete Work of Charles Darwin Online. University of Cambridge. Truy cập 25 tháng 7 năm 2007.
- ^ IAP Statement on the Teaching of Evolution, Interacademy Panel
- ^ Trong cuốn sách chính luận toàn diện về thuyết sáng tạo The Creationists, sử gia Ronald Numbers đã lần theo các động cơ tôn giáo và các giả tạo khoa học của những nhà ủng hộ thuyết sáng tạo đáng chú ý, gồm George Frederick Wright, George McCready Price, Harry Rimmer, John C. Whitcomb, Henry M. Morris và Viện nghiên cứu Thuyết sáng tạo (bao gồm một số người), Phillip E. Johnson và của Thiết kế thông minh.
Numbers, Ronald (30 tháng 11, 2006). The Creationists: From Scientific Creationism to Intelligent Design, Expanded Edition. Harvard University Press. tr. 624 trang. ISBN 0674023390. - ^ Godfrey, Laurie R. Scientists Confront Creationism. Pg 8. W. W. Norton & Company (1984). ISBN 0-393-30154-0.
- ^ Sarfati, Jonathan & Matthews, Michael (2000). Argument: Creationism is religion, not science. Answers in Genesis.
- ^ “Statement on the Teaching of Evolution” định dạng (PDF). American Association for the Advancement of Science (2006). Truy cập 20 tháng 3 năm 2007.
- ^ a b c Abdul Majid (22 tháng 4 năm 2002). “The Muslim Responses To Evolution” định dạng (html). Islamic Research Foundation International, Inc.. Truy cập 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Worldwide creationism, Shotgun stunner, and more” định dạng (html). New Scientist. Truy cập 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “About Us” định dạng (html). Truy cập 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ a b Moran, Laurence (1993). “What is Evolution?”. The TalkOrigins Archive. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ a b “Ask the experts:Biology-Is the human race evolving or devolving?”. Scientific American (1998). Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ Carroll SB (2001). "Chance and necessity: the evolution of morphological complexity and diversity". Nature 409 (6823): 1102–9. doi:10.1038/35059227. PMID 11234024.
- ^ “CA212: Definition of evolution” định dạng (HTML). talkorigins.org. Truy cập 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ Doolan, Robert (1996). “Oh! My aching wisdom teeth!”. Answers in Genesis. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ AboutDarwin.com
- ^ England, P.; Molnar, P.; Righter, F. (Tháng một 2007). "John Perry's neglected critique of Kelvin's age for the Earth: A missed opportunity in geodynamics". GSA Today 17 (1): 4–9. doi:10.1130/GSAT01701A.1.
- ^ Boltwood, B. B. (1907). "On the ultimate disintegration products of the radio-active elements. Part II. The disintegration products of uranium". American Journal of Science 23: 77–88.
- ^ Bowler, Peter J. (1983). The eclipse of Darwinism: anti-Darwinian evolution theories in the decades around 1900 (ấn bản paperback). Baltimore: Johns Hopkins University Press. 23–24. ISBN 0-8018-4391-X.
- ^ Bowler, PJ (2003). Evolution: The History of an Idea, Third Edition, Completely Revised and Expanded. University of California Press. ISBN 978-0520236936.
- ^ a b c Moore, James R. (1981). The Post-Darwinian Controversies: A Study of the Protestant Struggle to Come to Terms with Darwin in Great Britain and America. Cambridge University Press. tr. 10. ISBN 9780521285179.
- ^ The Relations Between Religion and Science by Frederick Temple Bài thứ tư trong tám bài thuyết giảng tại Đại học Oxford năm 1884
- ^ Pius XII, encyclical Humani Generis
- ^ John Paul II, Message to the Pontifical Academy of Sciences on Evolution
- ^ Adnan Oktar (22 tháng 4 năm 1999). “The Evolution Deceit” định dạng (html). Truy cập 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Darwin Correspondence Project – Darwin and design: historical essay”. Truy cập 2 tháng 9 năm 2008.
- ^ Scott EC, Matzke NJ (May 2007). "Biological design in science classrooms". Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 104 Suppl 1: 8669–76. doi:10.1073/pnas.0701505104. PMC 1876445. PMID 17494747.
- ^ “Evolution is Religion”. Truy cập 1 tháng 5 năm 2010.
- ^ a b Một bản Wedge Strategy của Discovery Institutes có thể xem tại: “Wedge Strategy” định dạng (PDF). Discovery Institute (1999). Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ “Polls Apart on Human Origins”. Harris Interactive. Truy cập 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b “National Science Teachers Association Disappointed About Intelligent Design Comments Made by President Bush”. National Science Teachers Association Press (2005). Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ “A Scientific Dissent from Darwinism” định dạng (pdf) (tháng 9 năm 2001). Truy cập 30 tháng 10 năm 2007.; mẫu quảng cáo ban đầu "100 Nhà khoa học".
- ^ Edwards, Mark (24 tháng 9 năm 2001). “100 Scientists, National Poll Challenge Darwinism” định dạng (php). Discovery Institute. Truy cập 30 tháng 10 năm 2007.
- ^ Dembski, William (2001). “Is Intelligent Design Testable?”. Truy cập 23 tháng 5 năm 2010.
- ^ Ham, Ken (2010). “Separation of Christianity and State”. Truy cập 23 tháng 5 năm 2010.
- ^ Moran, Laurence (1993). “Evolution is a Fact and a Theory”. The TalkOrigins Archive. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ Dr. David N. Menton. “Is Evolution a Theory, a Fact, or a Law?”. Missouri Association for Creation. Truy cập 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Isaak, Mark (2003). “Five Major Misconceptions about Evolution”. The TalkOrigins Archive. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ Gould, SJ (1994). Hen's Teeth and Horse's Toes. W. W. Norton & Company. 253–262. ISBN 0393017168. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ Lenski, RE (2000). “Evolution: Fact and Theory”. ActionBioscience.org. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ a b c Morris, HM (1985). Scientific Creationism. Master Books. ISBN 978-0890510025.
- ^ Theobald, Douglas (2004). “29+ Evidences for Macroevolution: Scientific "Proof", scientific evidence, and the scientific method”. The TalkOrigins Archive. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ The Crusade Against Evolution, Evan Ratliff, Tháng 10 năm 2004, Wired magazine
- ^ Meyer, SC. “Teach the controversy”, Cincinnati Enquirer. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ a b Isaak, M (2004). “Index to Creationist Claims, Claim CA040: Equal time”. The TalkOrigins Archive. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ a b Scott, EC (2004). Evolution vs. Creationism: An Introduction. University of California Press. ISBN 0520246500.
- ^ “Blown away by design”. Truy cập 1 tháng 5 năm 2010.
- ^ Morton, GR (2002). “The Imminent Demise of Evolution: The Longest Running Falsehood in Creationism”. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007.
- ^ “World's Greatest Creation Scientists from Y1K to Y2K”. Truy cập 4 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Was Darwin a Christian? Did he believe in God? Did he recant evolutionism when he died? - ChristianAnswers.Net”. Truy cập 4 tháng 5 năm 2010.
- ^ a b Ham, K (1987). The Lie: Evolution. Master Books. ISBN 0-89051-158-6. Truy cập 24 tháng 3 năm 2007. Xem Evolution is Religion, chương 2.
- ^ Dembski, WA (2006). The Design Inference: Eliminating Chance through Small Probabilities (Cambridge Studies in Probability, Induction and Decision Theory). Cambridge University Press. ISBN 978-0521678674.
- ^ a b Morris, HM (2001). "Evolution Is Religion—Not Science" (PDF). Impact: Vital Articles on Science/Creation 332.
- ^ Wiker, BD (2003). “Does Science Point to God? Part II: The Christian Critics”. Crisis Magazine. Truy cập 25 tháng 3 năm 2007.
- ^ Isaak, Mark (2004). "Index to Creationist Claims, Claim CA611: Evolution Sacrosanct?". TalkOrigins Archive.
- ^ Kutschera U, Niklas KJ (June 2004). "The modern theory of biological evolution: an expanded synthesis". Naturwissenschaften 91 (6): 255–76. doi:10.1007/s00114-004-0515-y. PMID 15241603.
- ^ McLean v Arkansas Board of Education, 529 F.Supp. 1255 .
- ^ Cline, A (2006). “Myth: Science is a Religion for Atheists that Requires Faith”. about.com. Truy cập 25 tháng 3 năm 2007.
- ^ a b c TalkOrigins Claim CA211, Mark Isaak, editor, Index to Creationist Claims, TalkOrigins, 2006. Retrieved on 2008-04-20.
- ^ Scientific Creationism, Henry M. Morris, 1974 Master Books, Arkansas, p. 6-7
- ^ Wilkins, JS (1997). “Evolution and Philosophy: Is Evolution Science, and What Does 'Science' Mean?”. The TalkOrigins Archive. Truy cập 25 tháng 3 năm 2007.
- ^ “Expelled Exposed: Why Expelled Flunks » Science & Religion”. National Center for Science Education. Truy cập 7 tháng 3 năm 2010.
NHỮNG THIẾU SÓT TRONG THUYẾT TIẾN HÓA CỦA DARWIN VÀ THUYẾT “BIG BANG”.Chu tất TiếnSau khi Charles Darwin xuất bản cuốn “On The Origin of Species”(Về Nguồn gốc các chủng loại) vào năm 1859, các cuộc tranh luận về nội dung cuốn sách đã liên tục tiếp diễn bởi các nhà khoa học, lý luận, thần học, và lôi kéo thêm rất nhiều người tranh cãi ngoài dòng khoa học chính thức. Tuy nhiên, vì không có cơ hội đọc tất cả các tài liệu liên hệ hoặc tham dự đầy đủ các cuộc thảo luận, nhiều người đã hiểu vấn đề một cách nông cạn. Dần dần, theo thời gian, những tư tưởng lệch lạc xuất hiện, làm biến dạng vấn đề một cách kỳ quặc. Có những người thần thánh hóa lý thuyết của Darwin và cho rằng ông là một vĩ nhân đã tìm ra nguồn cội của con người.
Những người Cộng Sản hay ủng hộ lý thuyết Cộng Sản đã tung hô Darwin một cách quá đáng và từ đó, phỉ báng tất cả các niềm tin tôn giáo khác. Một số lý thuyết gia thì hoài nghi cả Darwin cả tôn giáo. Thực tế, nếu nhìn vào thuyết Tiến Hóa một cách khoa học và khách quan, những nhà nghiên cứu về chủng loại, về Nhân Loại Học, về Di Truyền đã tìm thấy trong lý thuyết của Darwin có nhiều lỗ hổng (gaping holes) trong giai đoạn sơ khai của loài người theo. Oâng ta đã không thể lấp đầy những khoảng trống ấy và tìm cách che dấu đi bằng những khảo cứu thực tiễn trong những thời đại của ông ta.
Sau này, với sự khám phá những bộ xương người nguyên thủy, các tác giả cận đại cũng dựa vào lý luận của Darwin mà tiếp tục quảng bá cho thiên tài này, mà không lưu ý rằng, lý thuyết của Darwin vẫn chỉ là một giả thuyết có một số kiểm chứng chưa đầy đủ. Bài viết dưới đây, tuy ngắn ngủi, nhưng mong được trình bầy một phần nào những lỗ hổng trong Thuyết Tiến Hóa của Darwin
I-Giả Thuyết, Lý Thuyết, và Luật:\
Trước khi đi vào chi tiết của Thuyết Tiến Hóa, ta thử tìm định nghĩa cho chữ “Thuyết” hay “Lý Thuyết”. Trong văn học, Thuyết hay Lý Thuyết chỉ là một. Khi nói một cách trang trọng, người ta dùng chữ “Lý thuyết”, khi nói ngắn gọn, dùng chữ “Thuyết”. Không có sự phân biệt giữa hai chữ này. Theo Tự điển Nguyễn văn Khôn, miền Nam xuất bản:” Theory. n. = Thuyết, lý thuyết, lý luận.” Theo Tự điển Anh Việt của Ủy Ban Khoa học Xã Hội, miền Bắc xuất bản: “Theory. dt. = Thuyết, học thuyết, lý thuyết, lý luận, nguyên lý.” Hiện nay, những điều mà Darwin khám phá vẫn chỉ được gọi là “Thuyết Tiến Hóa” hay “Lý Thuyết Tiến Hóa” (Evolutionism and/or Theory of Evolution.)
Trong các môn khoa học thực nghiệm, khi nói đến các khám phá được thu dụng, người ta chia ra làm ba cấp độ: Giả thuyết (Hypothesis), Lý thuyết (Theory), và Luật (Law). Trước hết, một nhà khoa học tìm thấy một thay đổi lạ, một liên hệ lạ giữa các vật chất, ông ta sắp xếp các liên hệ hay sự tìm thấy mới lạ đó thành một hệ thống và gọi hệ thống lý luận mới đó là một Giả Thuyết. Nhà khoa học đó trình bầy giả thuyết của mình cho các nhà khoa học khác để cùng nghiên cứu.
Sau khi lập đi lập lại giả thuyết đó và đa số tìm được một lập luận tương đối vững chắc, giả thuyết ấy được các khoa học gia gọi là Lý Thuyết. Nếu lý thuyết ấy đứng vững trước mọi thử thách qua mọi thời đại, hoặc có thể được chứng minh bất cứ lúc nào cũng đúng, không còn ai phê bình, chỉ trích nữa, lúc ấy Lý Thuyết mới biến thành Luật và mọi người phải tuân theo. Chẳng hạn như Luật Bảo Tồn Năng Lượng hay Luật Quán Tính của vật lý và các định luật toán học. Còn lý thuyết của Darwin, cho đến nay, vẫn còn là Lý Thuyết, chưa phải là Luật, và sẽ vĩnh viễn không bao giờ thành Luật, dù cho đến ngày Tận Thế.
Trong khi đó, tương tự, thuyết Sáng Tạo (Creationism) của các nhà thần học Thiên Chúa Giáo cũng vẫn chỉ là Lý Thuyết, chưa phải là Luật, vì có nhiều điều không thể chứng minh bằng khoa học. Theo Tự điển Webster’s Ninth New Collegiate Dictionary: “Creationism: a doctrine or theory holding that matter, the variuos form of life, and the world were created by God out of nothing.” ( Thuyết Sáng Tạo: một học thuyết hay một lý thuyết cho rằng vật chất, các thể khác nhau của đời sống, và trái đất đã được Thiên Chúa tạo ra từ chỗ không có gì.) Năm 1973, tiểu bang Tennessee ban hành một đạo luật yêu cầu rằng sách học phải dậy Thuyết Tiến Hóa như là một lý thuyết, không phải một khoa học, trong khi lại bắt buộc phải gồm thuyết sáng Tạo vào học trình sinh hóa.
Năm 1981, tiểu bang Louisiana đã thông qua một luật bắt buộc các trường trung học phải “giảng dậy công bằng với môn gọi là Khoa học Sáng tạo” (Phillip E. Johnson. Darwin on Trial. trang 3) Cùng năm đó, tiểu bang Arkansas cũng thông qua một đạo luật đòi hỏi các trường Trung hoc phải giảng dậy công bằng giữa “creation-science” và “evolution-science”. (Sách đã dẫn. Trang 112).
Không những các nhà lập pháp đã gọi thuyết Sáng Tạo (creationism) mà còn trang trọng gọi là Khoa Học Sáng tạo nữa. Năm 1974 , Whitcomb và Morris đã phổ biến cuốn sách giáo khoa tựa là “Scientific Creationism” để dùng trong các trường học phổ thông. (Del Ratzch. The Battle of the Beginnings. 1996. tr.75) Hầu hết các sách liên quan đến cuộc tranh luận, dù là từ phía những người chống đối thuyết Sáng Tạo, cũng vẫn dùng hai danh từ ngang nhau : “evolutionist” và “creationist”. Chưa có ai dám gọi là Luật Tiến Hóa hay Luật Sáng Tạo cả.
Vì tính chất thiếu minh bạch khoa học như thế, cả hai thuyết Sáng tạo và Tiến Hóa cứ trên đà tranh luận mãi, không có hy vọng chấm dứt. Tuy nhiên, mới đây, năm 1997, Richard Milton đã cho xuất bản một cuốn sách có tựa đề là: “Ðập vỡ huyền thoại về Thuyết Darwin” (Shattering the Myths of Darwinism). Richard Milton là một người viết báo khoa học và là một kỹ sư họa kiểu ở Luân Ðôn.
Ông cũng là thành viên của Mensa, xã hội “high-IQ”, (xã hội của những người trí thức cao cấp), viết cho tờ Mensa Magazine, ông đồng thời là thành viên của Hội Chuyên Gia Ðịa Chất trong hơn 20 năm. Richard Milton đã được mời lên thuyết trình trong các chương trình của BBC, NBC, và các đài truyền hình khác. Ông phê phán kịch liệt những lỗ hổng (gaping holes) của lý thuyết Darwin, và cho rằng đây vẫn chỉ là một lý thuyết. Cùng lý luận với ông, nhiều nhà khoa học khác, kể cả các nhà khoa học về Cloning (truyền giống vô sinh) cũng chứng minh rằng lý luận của Darwin chưa hoàn toàn đầy đủ.
II-Về Thuyết Big Bang:
Ngược lại với những dẫn chứng của phe chống thuyết Tiến Hóa và đề cao thuyết Sáng Tạo, một số khoa học gia cố chứng minh rằng không có việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, mà cho rằng sự xuất hiện của các hành tinh là một sự ngẫu nhiên. Qua sự nghiên cứu các thiên hà, họ đã đưa ra một lý thuyết mới: Thuyết “Big Bang”. Họ cho rằng sự kiện Mặt Trăng, Mặt Trời, Trái Ðất và các hành tinh được tạo ra từ một vụ nổ vũ trụ khủng khiếp mà trí óc con người không thể tưởng tượng được. Vụ nổ này được đặt tên là “Big Bang”. Sau vụ nổ hàng tỷ năm, khối được gọi là Trái đất nguội lại và từ đó, các sinh vật đơn bào và đa bào bắt đầu phát triển, tạo nên con người và các sinh vật. Lý thuyết này, cho đến hiện tại, vẫn chưa được toàn bộ các khoa học gia chấp nhận.
a-Tự điển Webster’s New World: “big-bang-theory. A theory of cosmology holding that the expansion of the universe began with a giantic explosion (big bang) between 12 and 20 billion years ago.” Tạm dịch là: “một lý thuyết về vũ trụ học cho rằng sự dãn nỡ (bành trướng) của vũ trụ bắt đầu bằng một vụ nổ vĩ đại (big bang) vào khoảng 12 và 20 tỷ năm trước.” Tiếng “Bang” là một chữ tượng thanh, người đầu tiên chế ra chữ này đã dùng một thanh âm như một tiếng nổ để diễn tả lý thuyết của mình. Tượng thanh là những chữ gợi ra âm thanh như “nổ đùng”, “lợn kêu eng éc”, “khóc òa”…Tiếng “bang” là âm thanh của một tiếng nổ, như trong bài hát “bang, bang, em bắn ngay tim anh..bang bang…”
b-Cuốn Physical Geology ấn hành trong các năm 1987, 1990, 1993, soạn bởi Carla W. Montgomery được dùng làm tài liệu giáo khoa cho sinh viên môn Ðịa chất Học tại Ðại Học Cal State Fullerton, trang 165: “Most astronomers now accept a cataclysmic explosion, or “big bang,” as the origin of the modern universe.. At that time, enormous quantities of matter were synthesized and flung violently apart across an ever-larger volume of space.”
Tạm dịch là: “Hiện nay, hầu hết các nhà thiên văn học chấp nhận một vụ nổ chấn động vĩ đại, hay “big-bang” như là nguyên thủy của vũ trụ hiện đại. Vào thời điểm đó, những số lượng khổng lồ của vật chất được tổng hợp và bắn tung ra một cách dữ dội băng qua một khối lượng lớn chưa từng có của không gian.” Ðiều lưu ý trong đoạn sách giáo khoa này là chỉ nói đến “hầu hết các nhà thiên văn học” chứ không phải toàn bộ các khoa học gia về các môn khác như vật lý, hóa học, toán học.. và cũng không nói đây là Luật mà mọi người bắt buộc phải tin theo.
c-Theo người viết, lý thuyết này có quá nhiều “lỗ hổng”, nhất là sự đi ngược lại các định luật Toán học, Hóa Học, và Sinh vật học.-Yếu tố “A” nếu không cộng (hoặc trừ, nhân, hay chia) với “B”, sẽ không thể tạo thành “C”. Nếu không có chất xúc tác hay một tác động nào đó trên “A” thì “A” vĩnh viễn là “A”. Một vật chất, sau khi được tạo ra, thí dụ như hòn bi, nếu không có gió, không có lực đẩy, không có tác dụng của trọng lực, nghĩa là không nghiêng xuống, thì vĩnh viễn sẽ nằm im tại chỗ mà nó được tạo ra.-Không có sự việc gì xẩy ra mà không có nguyên nhân. Không có sự kết hợp nào tự nhiên mà thành. Trong muôn tỷ loại động vật, trừ một số rất ít lưỡng tính, luôn có giống cái và giống đực. Hai giống cái và đực tác động lên nhau, tạo thành thế hệ tiếp nối. Giống lưỡng tính thì tự nó sinh sản, không cần giao hợp đực, cái, nhưng không phải vì thế mà cho rằng: đó! thiên nhiên có sự sinh sản mà không cần kết hợp!
Xin thưa, ngay trong các sinh vật lưỡng tính đó, các tế bào đã có “gene” có tính chất biến hóa thành đực và cái sẵn rồi. Số sinh vật lưỡng tính đó không nhiều và không đóng góp trong chu trình tiến triển của sinh vật là bao. (Lá cây ban đêm thả carbonic, ban ngày nhả oxy để làm lợi cho loài người, con trùng này dọn rác của con trùng kia, ong hút mật và đồng thời làm “ông Mai” gây giống cho hoa...)-Về vụ nổ Big Bang: Nếu không có tác động, không có ngòi nổ, không có va chạm, thì không có vụ nổ.
-Về sự biến thái từ vật chất thành sinh vật: Không có chất xúc tác, không có tác động, vật chất muôn muôn vạn thế kỷ vẫn là vật chất, không thể tự biến thành sinh vật được. Một đơn bào, nếu “tự nhiên” mà xuất hiện, sẽ vĩnh viễn là đơn bào, không thể tự biến hóa thành một sinh vật có nhiều loại tế bào cấu tạo hoàn toàn khác nhau, và dứt khoát không thể tự biến thành một sinh vật hoàn hảo như con người, có trí óc và suy tưởng. Không ai có thể tưởng tượng được một cục đá nằm dưới chân mình, một ngày nào đó, sẽ biến thành một con ếch hay con người.
-Nói đến suy tưởng, lại có một vấn đề nữa phát sinh: Vật chất nào tạo ra Tư Tưởng? Một vụ nổ trong không gian làm bắn đi hàng ngàn tỷ khối lượng vật chất, không thể nào tạo ra Tư Tưởng được. Mà Tư Tưởng thì biến hóa khủng khiếp. Tư Tưởng tạo ra văn chương, văn hoá, khoa học, computer. Tác động chỉ đạo nào làm cho Tư Tưởng biến hóa, nhân, chia, trừ, cộng?-Vậy, theo thiển ý người viết, “Big Bang” mới chỉ là cấp độ sơ khởi của một giả thuyết, chưa đủ tư cách là một lý thuyết.
III-Thuyết Tiến Hóa:
Darwin không phải là người đầu tiên phát minh ra thuyết Tiến Hóa. Ông đã dựa theo nhiều nhà khám phá trước như Paley , Lyell, và Malthus. Trong cuốn Darwin’s Metaphor, Chương III (Tài liệu giáo khoa của Cal State Fullerton, môn Khoa Học Tự Nhiên) Robert Young viết: “Ðó là khi ông đọc Malthus vào năm 1838, ông đã bị xúc động bởi sự giải thích về thiên nhiên của Malthus vàø điều này đã làm củng cố thêm những gì ông đã thu thập được từ Lyell (người cũng dùng Malthus để giải thích những vấn nạn về sinh thái học và sự tuyệt chủng) và từ sự nghiên cứu về những súc vật đã được thuần hóa.
Vì vậy, Paley và Malthus đã ảnh hưởng trên Darwin rất nhiều phương diện. Paley nhấn mạnh về sự hội nhập hoàn toàn; Malthus về sự mâu thuẫn. Ở một mức độ nào đó, một cách phản đề, Darwin đã tổng hợp chúng lại.” Ngoài ra, ông còn ảnh hưởng sâu xa bởi Lamarck, nguời đã chủ trương rằng những đặc tính tiến hóa trong các cơ phận có thể di truyền được, chưa kể đến một năm trước khi cuốn “On The Origin of Species”, ông đã cùng với Alfred Wallace trình bầy chung với nhau về sự Chọn Lựa Tự Nhiên ở Luân Ðôn. (Origin of species. British Musem. Cambridge University Press. 1981).
Cuốn "On the origin of Species", tập hợp những lý thuyết quan trọng nhất của Darwin, gồm có các chương: Sự biến đổi duới việc thuần hóa, Chiến đấu để sinh tồn, Chọn lựa Tự Nhiên, Luật Biến đổi và sự liên hệ phát triển, Những khó khăn trong vấn đề chuyển hóa, Bản năng hoặc quyền lực tinh thần của súc vật, Sự lai giống, sự bất toàn của các ghi chép về Ðịa chất, tính chất kế thừa của các cơ phận, sự phân phối địa chất trong không gian, sự sắp hạng hay sự kết giao (hôn phối) hỗ tương. Một cách vắn tắt, Lý Thuyết của Darwin gồm những điểm như sau:
a-Tự tái tạo, tự di truyền (Self Replication/inheritance): Một số sinh vật có khả năng tự tái tạo ra các thế hệ kế tiếp và những bản phụ đó (copies) cũng có khả năng để tự di truyền.b-Sự biến dạng: Có những sự biến dạng từ vật thể này sang vật thể khác, hoặc biến dạng từng phần trong cơ thể một sinh vật.c- Sự chọn lựa: Ðây là điểm quan trọng nhất. Darwin cho rằng sinh vật có thể chọn lựa để sinh tồn (survival/natural selection), hoặc chọn lựa vì phối hợp chủng loại (sexual selection)Từ các chương này, thuyết Tiến Hóa cho rằng: Không có bàn tay Thượng Ðế trong việc tạo ra vũ trụ, nhất là việc tạo ra các chủng loại mới. Con người cũng như các sinh vật khác là những sản phẩm của sự tiến hóa từ các chủng loại trước. Khỉ và Loài người có cùng một ông Tổ, ông Tổ này cũng là sản phẩm của việc tiến hóa từ các đơn bào. Thiên nhiên (các động vật và thực vật) hiện hữu đều trải qua một sự chiến đấu với môi trường (đất, không khí, thời tiết…) và với đồng loại để sống còn. Trong các cuộc tranh thắng, động vật nào mạnh hơn và biết thích hợp với môi trường hơn sẽ tồn tại (natural selection).
IV- Vài mâu thuẫn nội tại trong thuyết Tiến hóa:
a-Thuyết Tiến Hóa chưa giải thích được toàn bộ cấu trúc của Thiên nhiên.Ỏ đoạn chót của Lời Nói Ðầu trong cuốn sách trên, Darwin viết: “Hơn nữa, Tôi đã được thuyết phục rằng Sự Lựa chọn Tự Nhiên là một phương tiện Chính yếu, nhưng không phải là phương tiện độc nhất của sự biến đổi!” (Furthermore, I am convinced that Natural Selection has been the main but not exlusive means of modification.) Tác giả đã mở ngỏ câu nói này, không giải thích thêm, vì có lẽ ông cũng nhận thấy, ngoài những điều ông thu thập được, vẫn còn những bí ẫn mà tri thức ông không thể giải thích được.Trong một đoạn khác, ông đã viết một cách lộn xộn rằng không thể để cho một người nào khoe khoang một cách bệnh hoạn, nghĩ và duy trì rằng “con người có thể nghiên cứu quá xa hay quá kỹ từ cuốn sách gồm những lời của Thiên Chúa hoặc từ cuốn sách của những công việc Chúa làm, thần thánh hay triết học; nhưng hãy để mặc họ cố gắng trong một tiến trình vô tận hay một sự thông thạo trong cả hai điều”. (that a man can search too far or be too well-studied in the book of God’s word, or in the book of God’s works; divinity or philosophy; but rather let men endeavor an endless progress or proficiency in both) (Kenneth R. Miller. Finding Darwin’s God. 1999. trang xii.) Nghĩa là chi? Thật khó hiểu. Một loại triết lý lưỡng lự, mà người ta có thể gọi là “ngụy biện” (logical fallacy), một loại “Non Sequitur” (không có điều theo sau).
Năm 1844, ông ta cho rằng, qua việc tồn tại của những gì thích hợp nhất trong khi chiến đấu để sinh tồn, sự chọn lựa tự nhiên (natural selection) đã có thể thay đổi một cách căn bản số lượng thăng bằng giữa những sinh vật và thực vật cạnh tranh với nhau. Nhưng, ông lại không bao giờ có thể giải thích được sự phát triển của những trạng thái bất định (variability) trong thiên nhiên, và sự biến đổi thuận tiện trong chốn hoang dã lại có thể làm cho những chủng loại lai giống tồn tại rất lâu.
Ngoài ra, ông cũng không thể trả lời câu hỏi tại sao số lượng sinh trưởng trong thiên nhiên lại không thể nào sánh kịp số lượng vật nuôi trong nhà, là nơi mà súc vật không có sự chọn lựa. Hơn nữa, ông cũng bế tắc với sự thay đổi rất khác biệt về môi trường hóa học và vật lý để tạo ra những giống loại mới. (S. Toulmin và J. Goodfield. The Discovery of Time. Ðại Học Chicago Press, 1965). Ông còn gặp trở ngại với động cơ của sự thay đổi và sự thừa kế cũng như về bào thai học.
b-Không phải những sinh vật xuất hiện trước là cha đẻ của nhửng sinh vật sau:Cũng trong cuốn “On the origin of species”, chương XIV, Darwin đã viết: “We should not be able to recognise a species as the parent of any one or more species if we were to examine them ever so closely, unless we likewise possessed many of the intermediate links between their past or parent and present states; and these many links we could hardly ever expect to discover, owing to the imperfection of the geolgical record.” Chính Darwin đã xác nhận là “chúng ta không thể nhận biết được cha mẹ của một chủng loại khi chúng ta phải nghiên cứu thật gần, trừ ra khi chúng ta có thể sở hữu được sợi giây liên kết trực tiếp giữa cha mẹ chúng và chủng loại hiện tại, mà những mối liên kết này, chúng ta không hy vọng gì khám phá được bởi vì sự bất toàn của địa chất học.”
Như vậy, cho dù có tìm được hàng trăm cái xương sọ khỉ có đặc tính như của loài người mà xuất hiện trước loài người hàng ngàn năm, cũng chưa chắc con người là con cháu của khỉ. Huống chi những cái sọ khỉ mà người ta đã kiếm được lại cách xa những cái sọ người hàng trăm ngàn năm. Nhìn theo một khung kính gần, lý thuyết này cũng có tính chất “nhà quê”, lỗi thời, lạc hậu, y như thời đại cách đây gần trăm năm, thấy một phụ nữ ở một mình trong nhà vài năm, rồi lại thấy một đứa trẻ, thế là vội vàng cho rằng bà mẹ này chửa hoang, và xúm lại đánh chết, mà không cần hỏi có phải là cháu bà, hay một đứa trẻ bỏ ngoài đường, bà mang về làm con nuôi hay không? Ðây là mấu chốt của vấn đề:
MỘT LỖ HỔNG KHÔNG THỂ LẤP ÐẦY!Ðể trả lời cho việc tìm thấy sọ khỉ và sọ người giống nhau và cách nhau vài trăm ngàn năm, người viết giả thiết rằng: có nhiều hệ truyền giống song song với nhau nhưng không bao giờ gặp nhau, một hệ Khỉ kéo dài hàng triệu năm, một hệ Người chừng vài trăm ngàn năm, hai hệ này có một số đặc tính tương tự nhưng không giao thoa với nhau và không phải là truyền nhân của nhau. Bằng chứng là cả vài chục ngàn năm nay, chưa có khám phá nào cho thấy những con khỉ có đột biến dần dần thành người như rụng bớt lông, như bập bẹ nói, như bỏ đặc tính leo trèo. Vài chục ngàn năm đối với vũ trụ thì như hạt cát, nhưng với sự tiến hóa của loài người thì là cả một con số thật lớn, vậy màtừ khi có lịch sử loài người, không thấy biến đổi gì.
Ngoài ra, cũng còn có những hiện tượng giao cấu lộn giống giữa những sinh vật tương cận như ngựa và lừa thành la, chó đuôi ngắn giao cấu với chó đuôi dài thành chó có đuôi vừa phải, người giao cấu với khỉ thành một con khỉ-người. Do đó mà có sự hoài nghi rằng, giả dụ có những sinh vật nửa người nửa khỉ, thì cũng có thể là kết quả của một sự pha giống đột biến hiếm hoi trong một môi trường nào đó, một không – thời gian nào đó, mà không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được.
Năm 1967, khi còn đi học ở Texas, người viết có dịp đến thăm một cơ sở của Cảnh Sát, nơi chứa những tang vật của các vụ giết người. Trong số các tang vật lạ lùng, có một cái lọ thủy tinh lớn, trong đó có đựng một cái thai “người” gần đủ, với tay chân, mắt mũi. Viên quản thủ tang vật cho biết đó là một cái thai “khỉ”! Một con khỉ Hắc tinh tinh cái, cao gần 5 bộ, có thai, đi lạng quạng từ trong một khu rừng gần nơi ở của người ra ngoài đường, bị xe cán chết.
Thấy con khỉ có thai to lớn, các viên chức mới mổ bụng ra, lấy cái thai ra ngoài, và hết sức ngạc nhiên khi đó là một thai người! Giả thuyết cho rằng đó là kết quả giao hợp của một nông dân nào sống gần đó, với con khỉ cái hay vào nhà ông ta... Các bác sĩ phụ khoa đều xác nhận rằng đó là một phiên bản của một “bé trai” đã chín tháng!
c-Lý thuyết không đầy đủ: Như đã giới thiệu ở trên, Richard Milton cho rằng với những khám phá mới, việc yếu tố di truyền thay đổi gây ra bởi sự Lựa chọn Tự nhiên rất giới hạn. Bằng những phương pháp định tuổi trái đất mới mẻ, các khoa học gia chứng minh rằng, cho dù không cần tác động để biến hóa, với sự biến đổi chậm chạp của sinh vật, tuổi của trái đất không đủ thời gian để cho một đơn bào tiến hóa thành một cơ phận đa bào phức tạp.
Ông cũng khám phá ra một yếu tố ngăn trở (embarrassing fact) càng ngày càng làm cho thuyết Darwin rất khó mà bỏ qua, đó là những mắt xích thiếu sót (missing links) trong mỗi hệ tiến hóa của những chủng loại. Cũng không có những chủng loại giao thoa nào được tìm thấy chứng minh rằng sự tiến hóa đã được tiến hành. Dựa trên những chứng cớ khoa học, Richard Milton đã khẳng định rằng lý thuyết tiến hóa đã trở thành một niềm tin hơn là một khoa học đầy đủ. (Sách đã dẫn. Trang bìa).
Trên đây chỉ là một vài nhận xét thô thiển về sự thiếu sót của Darwin cũng như của thuyết Big Bang, được viết ra để trả lời cho những người Cộng Sản Việt Nam, vẫn hàng kính ngưỡng thuyết Tiến Hóa của Darwin một cách mù quáng. Từ đó, tìm mọi phương tiện tiêu diệt mọi tôn giáo, và cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện, ru ngủ nhân loại.” Mong rằng những kẻ Cộng Sản đọc bài viết này sẽ thức tỉnh, và trả lại quyền Tự Do Tín Ngưỡng cho mọi người dân Việt yêu dấu.Chu Tất Tiến.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét