Mỹ - Trung đối đầu tại Đông Nam Á
Lính Mỹ và Philippines tập trận chung tại Ternate, ngoại ô Manila ngày 19/04/2012.
REUTERS/Romeo Ranoco
Le Monde nhận định, việc Bắc Kinh yêu sách chủ quyền tại Biển Đông làm cho các nước trong khu vực hết sức lo ngại. Các quốc gia này tăng cường hợp tác quân sự với Washington, đúng lúc đại cường này đang lại hướng về châu Á. Việc Hoa Kỳ quay về với khu vực, đặc biệt là trong quan hệ với Philippines, Việt Nam, Úc và Nhật Bản, được Trung Quốc coi là một dấu hiệu báo động. Thế là Bắc Kinh bèn đẩy nhanh những quân cờ, như đã hành động tại bãi Scarborough.
Phụ trang địa chính trị của báo Le Monde số ra cuối tuần này được dành cho hồ sơ mang tựa đề « Đông Nam Á : Trung Quốc và Hoa Kỳ mặt đối mặt ». Hồ sơ trên hai trang lớn bên trong mang tên « Biển Đông, một khu vực nguy cơ cao mới » với các bài viết công phu « Chiến lược việc đã rồi của Trung Quốc », « Hoa Kỳ tái cam kết lâu dài tại châu Á » và « Philippines đang ở tuyến đầu » của các thông tín viên Le Monde tại Bắc Kinh, Washington và Thái Lan.
Hoa Kỳ tái cam kết lâu dài tại châu Á
Thông tín viên Corine Lesnes tại Washington nhấn mạnh đến một sự « Tái cam kết lâu dài của Hoa Kỳ tại châu Á ». Ngay từ tháng 11/2011, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã viết trên tạp chí Foreign Affaires rằng định hướng này là « nỗ lực ngoại giao quan trọng nhất trong thời đại chúng ta ». Phía Mỹ nghĩ rằng châu Âu sẽ phản đối, nhưng không có gì xảy ra, châu Âu đang bận lo giải quyết cuộc khủng hoảng Hy Lạp.
Tiếp theo đó là chuyến công du dài ngày vào giữa tháng 11/2011 của Tổng thống Barack Obama gây ấn tượng cho các nhà ngoại giao châu Âu : 9 ngày, vượt 35.000 km, với đoàn tùy tùng 200 người. Ông Obama đã đẩy mạnh một hiệp định tự do thương mại với 8 nước ở Thái Bình Dương, loan báo gởi thủy quân lục chiến Mỹ đến Úc, ký hiệp ước đối tác ưu đãi với Indonesia…chứng tỏ Hoa Kỳ muốn khẳng định vai trò lãnh đạo tại khu vực này trong nhiều thập kỷ tới.
Theo Le Monde, chính quyền Mỹ muốn cho thấy chương Irak - Afghanistan đã khép lại, nay Hoa Kỳ sẽ hiện diện thường trực tại châu Á - nơi mà Mỹ nhập khẩu hàng hóa nhiều nhất và cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Mỹ, kể từ năm 2000. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, ông Obama đã cho biết sẽ hướng về châu Á, và chuyến công du đầu tiên của bà Hillary Clinton tháng 2/2009 được dành cho hội nghị ASEAN tại Việt Nam, trong khi trước đó chỉ có các trợ lý tham dự. Một năm sau đó tại Hà Nội, bài diễn văn của bà Clinton đã nhấn mạnh việc tự do hàng hải tại Biển Đông nằm trong số các lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ, làm cho Bắc Kinh giận dữ.
Le Monde nhận định, chính quyền Mỹ đã làm việc rất có phương pháp. Hoa Kỳ tham gia vào các hoạt động khu vực, thậm chí tổ chức hội nghị thượng đỉnh APEC 2011 tại Hawai. Washington nối lại các quan hệ thân thiện với những nước thuộc loại trung bình như Indonesia và Hàn Quốc, và trấn an tất cả các quốc gia nào lo sợ trước sức mạnh Trung Quốc, kể cả các chế độ độc tài.
Mỹ củng cố quan hệ với một số láng giềng của Trung Quốc như Ấn Độ, còn với Việt Nam, bà Clinton đã viện tới lịch sử, trong một cuộc hội thảo các chuyên gia Việt-Mỹ về cuộc xung đột trong thập niên 70 và chiến lược Mỹ trong khu vực. Bà ký hiệp định tăng cường hợp tác quân sự với Philippines, và khuyến khích Miến Điện nới tay với các nhà đối lập. Hoa Kỳ dự định đưa bốn chiến hạm neo đậu tại Singapore, và sắp tới 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ sẽ được triển khai tại căn cứ Darwin của Úc.
Song song đó, Barack Obama cũng ý tứ dành một trong những chuyến công du đầu tiên cho Trung Quốc, cố gắng duy trì quan hệ tốt với Bắc Kinh. Chỉ trong tháng Giêng năm nay, Hồ Cẩm Đào và ông Obama đã gặp gỡ 10 lần, và từ khi đưa ra đối thoại chiến lược với Bắc Kinh năm 2009, mỗi năm các đại diện Mỹ - Trung có đến 60 cuộc gặp.
Các nhà chiến lược Mỹ muốn có một châu Á ổn định, tránh nguy cơ đối đầu giữa hai người khổng lồ trong khu vực là Ấn Độ và Trung Quốc. Nhưng sức mạnh của Bắc Kinh càng tăng thì Hoa Kỳ càng cần phải đảm bảo cam kết với các đồng minh - một điều mà Le Monde cho rằng không phải dễ dàng, trong khi đang phải siết chặt ngân sách.
Chiến lược đặt nước khác vào tình thế chuyện đã rồi
Trong bài « Chiến lược việc đã rồi của Trung Quốc », thông tín viên Brice Pedroletti nhắc đến hai lời tuyên bố của các lãnh đạo Bắc Kinh. Một là vào năm 1988, khi Tổng thống Corazon Aquino của Philippines nói rằng về mặt địa lý thì Philippines gần Trường Sa hơn, Đặng Tiểu Bình đã trả đòn ngay : « Về mặt địa lý, thì Philippines cũng không xa Trung Quốc bao nhiêu ! ». Hai là tuyên bố của Ngoại trưởng Trung Quốc trong diễn đàn khu vực ASEAN tại Hà Nội năm 2010 : « Trung Quốc là một nước lớn, còn các nước khác là nước nhỏ. Đó là một thực tế ! ».
Tờ báo đặt câu hỏi, liệu cái lý của kẻ mạnh sẽ chiếm ưu thế tại Biển Đông hay không ? Vụ đối đầu với Philippines tại bãi Scarborough mà Bắc Kinh gọi là Hoàng Nham đảo, kéo dài từ đầu tháng Tư đến nay cho thấy chiến lược của Trung Quốc. Theo nhà Trung Quốc học Jean-Pierre Cabestan thì Bắc Kinh - hiện chỉ kiểm soát được Hoàng Sa trong số ba nhóm quần đảo và bãi đá ngầm tại Biển Đông - có vẻ chưa muốn thay đổi nguyên trạng tại đây, nhưng chủ yếu tìm cách chiếm lấy các vùng biển xung quanh. Còn một chuyên gia nước ngoài về hải quân tại Bắc Kinh phân tích, Trung Quốc sử dụng chiến lược « đặt người khác trước việc đã rồi ». Bắc Kinh không sử dụng hải quân để can thiệp trong các vụ tranh chấp, mà gởi đến các lực lượng bán quân sự.\
Le Monde cho biết, các lực lượng này thuộc năm cơ quan, trong đó có hai lực lượng hiện đại nhất, can thiệp thường xuyên vào Biển Đông nhất là lực lượng Hải giám (CMS) trực thuộc Quốc gia Hải dương cục, dưới quyền Bộ Đất đai và Tài nguyên, cơ quan Kiểm ngư thuộc Bộ Nông nghiệp. Ba lực lượng còn lại là hải quan, tuần duyên và an ninh hàng hải. Hiện bốn chiếc tàu của Hải giám đang bảo vệ cho ngư dân Trung Quốc tại Scarborough, chiếc tàu tuần tra Ngư Chính 310 hiện đại nhất của Kiểm ngư cũng đang có mặt tại đó.
Theo tổ chức phi chính phủ chuyên giám sát các cuộc xung đột là International Crisis Group, thì việc mở rộng sử dụng các lực lượng bán quân sự và cảnh sát trong các tranh chấp chủ quyền làm tăng nguy cơ gây đụng độ. Hải quân thường biết kìm chế hơn, trong khi các lực lượng bán quân sự thường mạnh dạn hành động vì ít liên quan đến hậu quả. Tuy chiến lược này giúp chính quyền trung ương có thể gián tiếp tiến công và dễ dàng phủi bỏ trách nhiệm, nhưng điểm yếu của Bắc Kinh là khó phối hợp chỉ huy các lực lượng vẫn thường hay ganh đua với nhau.
Bên cạnh đó, các tàu cá Trung Quốc cũng được tung ra khắp nơi. Những chương trình tài trợ rộng rãi của các tỉnh duyên hải đã kích thích đội tàu hiện đại hóa, đi đánh bắt ngày càng xa hơn, đè bẹp các nước láng giềng. Le Monde nêu ví dụ tàu công xưởng Hải Nam Bảo Sa 001 trọng tải 32.000 tấn với 600 công nhân được triển khai tại Biển Đông.
Nhắc đến các cuộc xung đột nghiêm trọng về lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, Le Monde nêu ra việc Trung Quốc tiến đánh để giành quyền kiểm soát Hoàng Sa từ Việt Nam vào năm 1974. Tất cả các ý định lập một mặt trận thống nhất ASEAN đều bị Bắc Kinh vô hiệu hóa ngay.
Một chuyên gia về hải quân nhận định, Trung Quốc làm mọi cách để các tranh chấp được giải quyết song phương, bác bỏ mọi khả năng đưa ra trước các định chế đa phương, luôn dựa vào cái gọi là « quyền lịch sử » của Trung Quốc. Tuy phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1996, nhưng sau đó Bắc Kinh lại thông qua một đạo luật ngăn trở Công ước này « làm ảnh hưởng đến các quyền lịch sử của Trung Quốc ».
Le Monde đặt câu hỏi, liệu có khả năng xảy ra sự cố nghiêm trọng tại Biển Đông hay không ? Tuy cứng rắn nhưng thật ra Bắc Kinh cũng phải thận trọng và thực dụng, vả lại cũng không muốn có lộn xộn trước thời điểm đại hội Đảng lần thứ 18 vào tháng 10 tới. Nhưng với một công chúng gắn bó với « quyền lịch sử » trên biển, tất cả những « sai lầm trong tính toán » có thể gây ra những hậu quả bất ngờ. Theo phân tích của một chuyên gia, thì trong bối cảnh chính trị trong nước đang chao đảo « nhất thiết không nên giảm thiểu tầm quan trọng của một sự cố nào dù nhỏ nhất ».
Philippines đang ở đầu sóng ngọn gió
Còn theo thông tín viên Bruno Philip tại Bangkok, thì « Philippines đang ở tuyến đầu ». Manila có vẻ quyết tâm nhất trong việc bảo vệ chủ quyền của mình. Việt Nam, đối thủ lịch sử hàng ngàn năm của đế quốc Trung Hoa thì kín đáo hơn. Hà Nội đòi hỏi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc kiểm soát, và toàn bộ quần đảo Trường Sa, mà hiện Việt Nam đang đóng trên khoảng hai chục đảo. Theo tác giả, thì Hà Nội hoàn toàn có lý do để hoan nghênh sự « tái cam kết » của Hoa Kỳ tại Đông Á.
Trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN tháng 11/2011, Tổng thống Philippines đã cố thuyết phục các thành viên khác liên kết chống lại Trung Quốc, nhưng không nước nào dám theo chân. Còn từ một tháng qua, ba tàu hải giám và 23 chiếc tàu cá Trung Quốc đang hiện diện tại vùng Scarborough, thách thức lực lượng tuần duyên Philippines.
Nhiều chuyên gia cho rằng các cuộc đối đầu tại Biển Đông chủ yếu vì tiềm năng dầu khí. Công ty dầu khí Philex Petroleum của Philippines vừa khẳng định mỏ khí Sampaguita gần khu vực tranh chấp có trữ lượng đến 4,66 tỉ tỉ mét khối thay vì 3,4 tỉ tỉ. Một nghiên cứu công bố tại Bắc Kinh ước tính trữ lượng tại Biển Đông lên đến 213 tỉ thùng dầu, tương đương 80% trữ lượng của Ả Rập Xê Út.
Theo Benoît de Tréglodé, giám đốc Viện nghiên cứu Đông Nam Á đương đại (Irasec) và là chuyên gia về Việt Nam, thì « Philippines và Việt Nam cần phải quốc tế hóa càng nhanh càng tốt vấn đề này. Cần quan trọng hóa ước tính về trữ lượng dầu khí vì các lý do quân sự và an ninh hóa các trao đổi thương mại. Các tàu ngầm có thể di chuyển ở độ sâu không thể phát hiện được, nên cần giám sát đáy đại dương, tăng ngân sách quân sự, gởi đến các quân nhân và các nhà địa chất, cũng như có sự hiện diện của các ngư dân không chỉ đánh cá… ». Dưới góc độ này, việc quản lý được đáy biển còn quan trọng hơn khai thác.
Riêng về quần đảo Trường Sa chẳng hạn, các đòi hỏi chủ quyền liên quan đến từ 300 tới 400 đảo nổi. Ông De Tréglobé cho biết theo nguồn tin quân sự Philippines thì số đảo tại Trường Sa thật ra có ít hơn, và con số chính xác luôn là bí mật được giữ kín.
Tổng thống Aquino của Philippines hiện đang do dự giữa hai thái độ : khi thì tố cáo « sự quấy nhiễu của Trung Quốc », khi lại kêu gọi thương thảo. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Phó Oánh tuyên bố đã « chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi sự leo thang » từ phía Philippines. Một nhà phân tích tại Manila nhận xét : « Washington chưa có hành động gì để bảo vệ Philippines ». Cho đến thời điểm hiện nay mà thôi – theo Le Monde.
« Người sống sót của Trại 14 » : Mãi mãi bị giam cầm trong tâm tưởng
Cũng liên quan đến châu Á nhưng tại Bắc Triều Tiên, tuần báo Le Nouvel Observateur có bài phỏng vấn Shin Dong Hyuk, nhân vật chính trong cuốn sách « Người sống sót của Trại 14, từ địa ngục Bắc Triều Tiên đến tự do » của nhà báo Mỹ Blaine Harden, bản tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Belfond phát hành.
Năm nay 30 tuổi, Shin Dong Hyuk đã trải qua hai phần ba cuộc đời trong trại cải tạo khắc nghiệt của Bắc Triều Tiên. Vượt thoát được, nay anh là nhân chứng cho một địa ngục có thật ít được thế giới biết đến.
Shin Dong Hyuk chưa hề bước vào trại cải tạo số 14 – trại nổi tiếng là kinh khủng nhất trong số sáu trại cải tạo của chế độ Bình Nhưỡng, đơn giản là vì anh được sinh ra ở đó. Cha mẹ anh là tù nhân, được các quản giáo ghép đôi vì cải tạo tốt. Các cặp « vợ chồng » như thế được ở với nhau 5 ngày liên tiếp và sau đó được gặp gỡ vài ngày trong năm. Mang dòng máu xấu xa của các kẻ thù giai cấp, các trẻ em sinh ra trong trại phải chuộc tội bằng cách lao động cực nhọc cho đến lúc chết. Shin đã sống trong trại 23 năm, anh trốn thoát được vào đầu năm 2005, và lang thang tại Trung Quốc trong hai năm trước khi được định cư ở Hàn Quốc.
Nhà báo Mỹ Blaine Harden đã mất chín tháng trời để thuyết phục Shin kể lại những năm tháng trong trại và cuộc vượt ngục. Tâm hồn bị hủy hoại vì tuổi thơ và tuổi thanh niên phải sống kiếp nô lệ phi nhân, Shin cho biết không bao giờ tự tha thứ cho mình vì đã tố cáo ý định trốn trại của mẹ và anh, khiến hai người thân bị tử hình. Anh chỉ mới có ý thức về đạo đức mãi về sau này.
Trong trại cải tạo Bắc Triều Tiên, không hề có khái niệm tình người. Mỗi người đều phải tố cáo các sai lầm của người khác, phải rình rập dò xét lẫn nhau. Shin Dong Hyuk thú nhận về mặt thể xác thì anh đã được tự do, nhưng trong tâm tưởng cũng như cảm xúc, anh vẫn đang là tù nhân của Trại cải tạo số 14. Và anh không biết trong suốt cuộc sống này, liệu anh có thoát ra được nhà tù kinh khiếp ấy không.
Tân Tổng thống Pháp và những thử thách
Cuộc bầu cử tổng thống Pháp vừa kết thúc hôm Chủ nhật 6/5, các tuần báo đã nhanh chóng ra số đặc biệt ngay vào ngày thứ Hai 7/5. Dĩ nhiên là chân dung ứng viên vừa đắc cử François Hollande chiếm trang nhất của tất cả các tờ báo tuần này.
Tuần báo L’Express « số lịch sử » với 50 trang đặc biệt đưa hình ông François Hollande đang ngước nhìn lên, với tựa lớn « Tổng thống », và « Số 100 người cùng với ông sẽ làm thay đổi nước Pháp ». Tờ báo lướt qua những điểm mạnh, điểm yếu của Tổng thống mới đắc cử, quá trình đấu tranh để có được ngày hôm nay, và nêu ra 100 khuôn mặt từ những người thân thiết, bạn bè từ thời cũ cho đến các chuyên gia trên nhiều lãnh vực khác nhau, các nhân vật của xã hội công dân có thể tham gia chính phủ. Bên cạnh đó là những thử thách trong quan hệ với Đức, và trong cuộc bầu cử Quốc hội sắp tới.
Tuần báo Le Nouvel Observateur thở phào nhẹ nhõm : « Thế là xong ! » với tấm ảnh ông François Hollande tươi cười phất cờ, và cũng với hồ sơ đặc biệt « 100 người mà ông Hollande sẽ cùng điều hành ». Tờ báo cũng thuật lại những câu chuyện bên lề trong quá trình tranh cử.
Le Point cũng ra « số lịch sử » đăng chân dung ông Hollande nghiêm nghị với tựa lớn « Tổng thống » và nêu ra những cảnh báo trên các vấn đề nợ công, kinh tế, đồng euro. Trong bài viết mang tựa đề « Hãy cứ mất lòng dân, thưa ông Hollande », tác giả Pierre-Antoine Delhommais cho rằng không đơn giản nhấn mạnh đến tăng trưởng mà đám mây Tchernobyl của khắc khổ trên bầu trời châu Âu lại dừng chân ở biên giới nước Pháp.
Chính sách tái thúc đẩy tiêu thụ, được ủng hộ trước mắt, nhưng cũng gây nguy cơ thâm hụt. Theo tác giả thì ông Hollande cần bắt đầu bằng thắt lưng buộc bụng, sau đó mới nên hào phóng, chú trọng nâng tính cạnh tranh hơn là sức mua. Chính sách này nếu thành công có thể làm mất lòng giới trung lưu, công chức, người về hưu, các công đoàn và nhất là ngay trong đảng Xã hội.
Tờ Courrier International cũng dành hồ sơ « François Hollande, trong sân chơi của những tên tuổi lớn » đã kể ra từ khủng hoảng chính trị Hy Lạp, đồng euro cho đến Afghanistan là những hồ sơ nóng bỏng đang chờ đợi tân Tổng thống. Vẫn còn chưa được thế giới biết đến nhiều, ông Hollande sẽ có dịp cọ sát trong các hội nghị thượng đỉnh G8, NATO và G20 diễn ra trước mùa hè này. Ông François Hollande cần phải vượt qua được chiếc bóng của người tiền nhiệm là ông Nicolas Sarkozy vốn được nước ngoài đánh giá cao vì các sáng kiến của ông.
Hoa Kỳ tái cam kết lâu dài tại châu Á
Thông tín viên Corine Lesnes tại Washington nhấn mạnh đến một sự « Tái cam kết lâu dài của Hoa Kỳ tại châu Á ». Ngay từ tháng 11/2011, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã viết trên tạp chí Foreign Affaires rằng định hướng này là « nỗ lực ngoại giao quan trọng nhất trong thời đại chúng ta ». Phía Mỹ nghĩ rằng châu Âu sẽ phản đối, nhưng không có gì xảy ra, châu Âu đang bận lo giải quyết cuộc khủng hoảng Hy Lạp.
Tiếp theo đó là chuyến công du dài ngày vào giữa tháng 11/2011 của Tổng thống Barack Obama gây ấn tượng cho các nhà ngoại giao châu Âu : 9 ngày, vượt 35.000 km, với đoàn tùy tùng 200 người. Ông Obama đã đẩy mạnh một hiệp định tự do thương mại với 8 nước ở Thái Bình Dương, loan báo gởi thủy quân lục chiến Mỹ đến Úc, ký hiệp ước đối tác ưu đãi với Indonesia…chứng tỏ Hoa Kỳ muốn khẳng định vai trò lãnh đạo tại khu vực này trong nhiều thập kỷ tới.
Theo Le Monde, chính quyền Mỹ muốn cho thấy chương Irak - Afghanistan đã khép lại, nay Hoa Kỳ sẽ hiện diện thường trực tại châu Á - nơi mà Mỹ nhập khẩu hàng hóa nhiều nhất và cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Mỹ, kể từ năm 2000. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, ông Obama đã cho biết sẽ hướng về châu Á, và chuyến công du đầu tiên của bà Hillary Clinton tháng 2/2009 được dành cho hội nghị ASEAN tại Việt Nam, trong khi trước đó chỉ có các trợ lý tham dự. Một năm sau đó tại Hà Nội, bài diễn văn của bà Clinton đã nhấn mạnh việc tự do hàng hải tại Biển Đông nằm trong số các lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ, làm cho Bắc Kinh giận dữ.
Le Monde nhận định, chính quyền Mỹ đã làm việc rất có phương pháp. Hoa Kỳ tham gia vào các hoạt động khu vực, thậm chí tổ chức hội nghị thượng đỉnh APEC 2011 tại Hawai. Washington nối lại các quan hệ thân thiện với những nước thuộc loại trung bình như Indonesia và Hàn Quốc, và trấn an tất cả các quốc gia nào lo sợ trước sức mạnh Trung Quốc, kể cả các chế độ độc tài.
Mỹ củng cố quan hệ với một số láng giềng của Trung Quốc như Ấn Độ, còn với Việt Nam, bà Clinton đã viện tới lịch sử, trong một cuộc hội thảo các chuyên gia Việt-Mỹ về cuộc xung đột trong thập niên 70 và chiến lược Mỹ trong khu vực. Bà ký hiệp định tăng cường hợp tác quân sự với Philippines, và khuyến khích Miến Điện nới tay với các nhà đối lập. Hoa Kỳ dự định đưa bốn chiến hạm neo đậu tại Singapore, và sắp tới 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ sẽ được triển khai tại căn cứ Darwin của Úc.
Song song đó, Barack Obama cũng ý tứ dành một trong những chuyến công du đầu tiên cho Trung Quốc, cố gắng duy trì quan hệ tốt với Bắc Kinh. Chỉ trong tháng Giêng năm nay, Hồ Cẩm Đào và ông Obama đã gặp gỡ 10 lần, và từ khi đưa ra đối thoại chiến lược với Bắc Kinh năm 2009, mỗi năm các đại diện Mỹ - Trung có đến 60 cuộc gặp.
Các nhà chiến lược Mỹ muốn có một châu Á ổn định, tránh nguy cơ đối đầu giữa hai người khổng lồ trong khu vực là Ấn Độ và Trung Quốc. Nhưng sức mạnh của Bắc Kinh càng tăng thì Hoa Kỳ càng cần phải đảm bảo cam kết với các đồng minh - một điều mà Le Monde cho rằng không phải dễ dàng, trong khi đang phải siết chặt ngân sách.
Chiến lược đặt nước khác vào tình thế chuyện đã rồi
Trong bài « Chiến lược việc đã rồi của Trung Quốc », thông tín viên Brice Pedroletti nhắc đến hai lời tuyên bố của các lãnh đạo Bắc Kinh. Một là vào năm 1988, khi Tổng thống Corazon Aquino của Philippines nói rằng về mặt địa lý thì Philippines gần Trường Sa hơn, Đặng Tiểu Bình đã trả đòn ngay : « Về mặt địa lý, thì Philippines cũng không xa Trung Quốc bao nhiêu ! ». Hai là tuyên bố của Ngoại trưởng Trung Quốc trong diễn đàn khu vực ASEAN tại Hà Nội năm 2010 : « Trung Quốc là một nước lớn, còn các nước khác là nước nhỏ. Đó là một thực tế ! ».
Tờ báo đặt câu hỏi, liệu cái lý của kẻ mạnh sẽ chiếm ưu thế tại Biển Đông hay không ? Vụ đối đầu với Philippines tại bãi Scarborough mà Bắc Kinh gọi là Hoàng Nham đảo, kéo dài từ đầu tháng Tư đến nay cho thấy chiến lược của Trung Quốc. Theo nhà Trung Quốc học Jean-Pierre Cabestan thì Bắc Kinh - hiện chỉ kiểm soát được Hoàng Sa trong số ba nhóm quần đảo và bãi đá ngầm tại Biển Đông - có vẻ chưa muốn thay đổi nguyên trạng tại đây, nhưng chủ yếu tìm cách chiếm lấy các vùng biển xung quanh. Còn một chuyên gia nước ngoài về hải quân tại Bắc Kinh phân tích, Trung Quốc sử dụng chiến lược « đặt người khác trước việc đã rồi ». Bắc Kinh không sử dụng hải quân để can thiệp trong các vụ tranh chấp, mà gởi đến các lực lượng bán quân sự.\
Le Monde cho biết, các lực lượng này thuộc năm cơ quan, trong đó có hai lực lượng hiện đại nhất, can thiệp thường xuyên vào Biển Đông nhất là lực lượng Hải giám (CMS) trực thuộc Quốc gia Hải dương cục, dưới quyền Bộ Đất đai và Tài nguyên, cơ quan Kiểm ngư thuộc Bộ Nông nghiệp. Ba lực lượng còn lại là hải quan, tuần duyên và an ninh hàng hải. Hiện bốn chiếc tàu của Hải giám đang bảo vệ cho ngư dân Trung Quốc tại Scarborough, chiếc tàu tuần tra Ngư Chính 310 hiện đại nhất của Kiểm ngư cũng đang có mặt tại đó.
Theo tổ chức phi chính phủ chuyên giám sát các cuộc xung đột là International Crisis Group, thì việc mở rộng sử dụng các lực lượng bán quân sự và cảnh sát trong các tranh chấp chủ quyền làm tăng nguy cơ gây đụng độ. Hải quân thường biết kìm chế hơn, trong khi các lực lượng bán quân sự thường mạnh dạn hành động vì ít liên quan đến hậu quả. Tuy chiến lược này giúp chính quyền trung ương có thể gián tiếp tiến công và dễ dàng phủi bỏ trách nhiệm, nhưng điểm yếu của Bắc Kinh là khó phối hợp chỉ huy các lực lượng vẫn thường hay ganh đua với nhau.
Bên cạnh đó, các tàu cá Trung Quốc cũng được tung ra khắp nơi. Những chương trình tài trợ rộng rãi của các tỉnh duyên hải đã kích thích đội tàu hiện đại hóa, đi đánh bắt ngày càng xa hơn, đè bẹp các nước láng giềng. Le Monde nêu ví dụ tàu công xưởng Hải Nam Bảo Sa 001 trọng tải 32.000 tấn với 600 công nhân được triển khai tại Biển Đông.
Nhắc đến các cuộc xung đột nghiêm trọng về lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, Le Monde nêu ra việc Trung Quốc tiến đánh để giành quyền kiểm soát Hoàng Sa từ Việt Nam vào năm 1974. Tất cả các ý định lập một mặt trận thống nhất ASEAN đều bị Bắc Kinh vô hiệu hóa ngay.
Một chuyên gia về hải quân nhận định, Trung Quốc làm mọi cách để các tranh chấp được giải quyết song phương, bác bỏ mọi khả năng đưa ra trước các định chế đa phương, luôn dựa vào cái gọi là « quyền lịch sử » của Trung Quốc. Tuy phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1996, nhưng sau đó Bắc Kinh lại thông qua một đạo luật ngăn trở Công ước này « làm ảnh hưởng đến các quyền lịch sử của Trung Quốc ».
Le Monde đặt câu hỏi, liệu có khả năng xảy ra sự cố nghiêm trọng tại Biển Đông hay không ? Tuy cứng rắn nhưng thật ra Bắc Kinh cũng phải thận trọng và thực dụng, vả lại cũng không muốn có lộn xộn trước thời điểm đại hội Đảng lần thứ 18 vào tháng 10 tới. Nhưng với một công chúng gắn bó với « quyền lịch sử » trên biển, tất cả những « sai lầm trong tính toán » có thể gây ra những hậu quả bất ngờ. Theo phân tích của một chuyên gia, thì trong bối cảnh chính trị trong nước đang chao đảo « nhất thiết không nên giảm thiểu tầm quan trọng của một sự cố nào dù nhỏ nhất ».
Philippines đang ở đầu sóng ngọn gió
Còn theo thông tín viên Bruno Philip tại Bangkok, thì « Philippines đang ở tuyến đầu ». Manila có vẻ quyết tâm nhất trong việc bảo vệ chủ quyền của mình. Việt Nam, đối thủ lịch sử hàng ngàn năm của đế quốc Trung Hoa thì kín đáo hơn. Hà Nội đòi hỏi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc kiểm soát, và toàn bộ quần đảo Trường Sa, mà hiện Việt Nam đang đóng trên khoảng hai chục đảo. Theo tác giả, thì Hà Nội hoàn toàn có lý do để hoan nghênh sự « tái cam kết » của Hoa Kỳ tại Đông Á.
Trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN tháng 11/2011, Tổng thống Philippines đã cố thuyết phục các thành viên khác liên kết chống lại Trung Quốc, nhưng không nước nào dám theo chân. Còn từ một tháng qua, ba tàu hải giám và 23 chiếc tàu cá Trung Quốc đang hiện diện tại vùng Scarborough, thách thức lực lượng tuần duyên Philippines.
Nhiều chuyên gia cho rằng các cuộc đối đầu tại Biển Đông chủ yếu vì tiềm năng dầu khí. Công ty dầu khí Philex Petroleum của Philippines vừa khẳng định mỏ khí Sampaguita gần khu vực tranh chấp có trữ lượng đến 4,66 tỉ tỉ mét khối thay vì 3,4 tỉ tỉ. Một nghiên cứu công bố tại Bắc Kinh ước tính trữ lượng tại Biển Đông lên đến 213 tỉ thùng dầu, tương đương 80% trữ lượng của Ả Rập Xê Út.
Theo Benoît de Tréglodé, giám đốc Viện nghiên cứu Đông Nam Á đương đại (Irasec) và là chuyên gia về Việt Nam, thì « Philippines và Việt Nam cần phải quốc tế hóa càng nhanh càng tốt vấn đề này. Cần quan trọng hóa ước tính về trữ lượng dầu khí vì các lý do quân sự và an ninh hóa các trao đổi thương mại. Các tàu ngầm có thể di chuyển ở độ sâu không thể phát hiện được, nên cần giám sát đáy đại dương, tăng ngân sách quân sự, gởi đến các quân nhân và các nhà địa chất, cũng như có sự hiện diện của các ngư dân không chỉ đánh cá… ». Dưới góc độ này, việc quản lý được đáy biển còn quan trọng hơn khai thác.
Riêng về quần đảo Trường Sa chẳng hạn, các đòi hỏi chủ quyền liên quan đến từ 300 tới 400 đảo nổi. Ông De Tréglobé cho biết theo nguồn tin quân sự Philippines thì số đảo tại Trường Sa thật ra có ít hơn, và con số chính xác luôn là bí mật được giữ kín.
Tổng thống Aquino của Philippines hiện đang do dự giữa hai thái độ : khi thì tố cáo « sự quấy nhiễu của Trung Quốc », khi lại kêu gọi thương thảo. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Phó Oánh tuyên bố đã « chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi sự leo thang » từ phía Philippines. Một nhà phân tích tại Manila nhận xét : « Washington chưa có hành động gì để bảo vệ Philippines ». Cho đến thời điểm hiện nay mà thôi – theo Le Monde.
« Người sống sót của Trại 14 » : Mãi mãi bị giam cầm trong tâm tưởng
Cũng liên quan đến châu Á nhưng tại Bắc Triều Tiên, tuần báo Le Nouvel Observateur có bài phỏng vấn Shin Dong Hyuk, nhân vật chính trong cuốn sách « Người sống sót của Trại 14, từ địa ngục Bắc Triều Tiên đến tự do » của nhà báo Mỹ Blaine Harden, bản tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Belfond phát hành.
Năm nay 30 tuổi, Shin Dong Hyuk đã trải qua hai phần ba cuộc đời trong trại cải tạo khắc nghiệt của Bắc Triều Tiên. Vượt thoát được, nay anh là nhân chứng cho một địa ngục có thật ít được thế giới biết đến.
Shin Dong Hyuk chưa hề bước vào trại cải tạo số 14 – trại nổi tiếng là kinh khủng nhất trong số sáu trại cải tạo của chế độ Bình Nhưỡng, đơn giản là vì anh được sinh ra ở đó. Cha mẹ anh là tù nhân, được các quản giáo ghép đôi vì cải tạo tốt. Các cặp « vợ chồng » như thế được ở với nhau 5 ngày liên tiếp và sau đó được gặp gỡ vài ngày trong năm. Mang dòng máu xấu xa của các kẻ thù giai cấp, các trẻ em sinh ra trong trại phải chuộc tội bằng cách lao động cực nhọc cho đến lúc chết. Shin đã sống trong trại 23 năm, anh trốn thoát được vào đầu năm 2005, và lang thang tại Trung Quốc trong hai năm trước khi được định cư ở Hàn Quốc.
Nhà báo Mỹ Blaine Harden đã mất chín tháng trời để thuyết phục Shin kể lại những năm tháng trong trại và cuộc vượt ngục. Tâm hồn bị hủy hoại vì tuổi thơ và tuổi thanh niên phải sống kiếp nô lệ phi nhân, Shin cho biết không bao giờ tự tha thứ cho mình vì đã tố cáo ý định trốn trại của mẹ và anh, khiến hai người thân bị tử hình. Anh chỉ mới có ý thức về đạo đức mãi về sau này.
Trong trại cải tạo Bắc Triều Tiên, không hề có khái niệm tình người. Mỗi người đều phải tố cáo các sai lầm của người khác, phải rình rập dò xét lẫn nhau. Shin Dong Hyuk thú nhận về mặt thể xác thì anh đã được tự do, nhưng trong tâm tưởng cũng như cảm xúc, anh vẫn đang là tù nhân của Trại cải tạo số 14. Và anh không biết trong suốt cuộc sống này, liệu anh có thoát ra được nhà tù kinh khiếp ấy không.
Tân Tổng thống Pháp và những thử thách
Cuộc bầu cử tổng thống Pháp vừa kết thúc hôm Chủ nhật 6/5, các tuần báo đã nhanh chóng ra số đặc biệt ngay vào ngày thứ Hai 7/5. Dĩ nhiên là chân dung ứng viên vừa đắc cử François Hollande chiếm trang nhất của tất cả các tờ báo tuần này.
Tuần báo L’Express « số lịch sử » với 50 trang đặc biệt đưa hình ông François Hollande đang ngước nhìn lên, với tựa lớn « Tổng thống », và « Số 100 người cùng với ông sẽ làm thay đổi nước Pháp ». Tờ báo lướt qua những điểm mạnh, điểm yếu của Tổng thống mới đắc cử, quá trình đấu tranh để có được ngày hôm nay, và nêu ra 100 khuôn mặt từ những người thân thiết, bạn bè từ thời cũ cho đến các chuyên gia trên nhiều lãnh vực khác nhau, các nhân vật của xã hội công dân có thể tham gia chính phủ. Bên cạnh đó là những thử thách trong quan hệ với Đức, và trong cuộc bầu cử Quốc hội sắp tới.
Tuần báo Le Nouvel Observateur thở phào nhẹ nhõm : « Thế là xong ! » với tấm ảnh ông François Hollande tươi cười phất cờ, và cũng với hồ sơ đặc biệt « 100 người mà ông Hollande sẽ cùng điều hành ». Tờ báo cũng thuật lại những câu chuyện bên lề trong quá trình tranh cử.
Le Point cũng ra « số lịch sử » đăng chân dung ông Hollande nghiêm nghị với tựa lớn « Tổng thống » và nêu ra những cảnh báo trên các vấn đề nợ công, kinh tế, đồng euro. Trong bài viết mang tựa đề « Hãy cứ mất lòng dân, thưa ông Hollande », tác giả Pierre-Antoine Delhommais cho rằng không đơn giản nhấn mạnh đến tăng trưởng mà đám mây Tchernobyl của khắc khổ trên bầu trời châu Âu lại dừng chân ở biên giới nước Pháp.
Chính sách tái thúc đẩy tiêu thụ, được ủng hộ trước mắt, nhưng cũng gây nguy cơ thâm hụt. Theo tác giả thì ông Hollande cần bắt đầu bằng thắt lưng buộc bụng, sau đó mới nên hào phóng, chú trọng nâng tính cạnh tranh hơn là sức mua. Chính sách này nếu thành công có thể làm mất lòng giới trung lưu, công chức, người về hưu, các công đoàn và nhất là ngay trong đảng Xã hội.
Tờ Courrier International cũng dành hồ sơ « François Hollande, trong sân chơi của những tên tuổi lớn » đã kể ra từ khủng hoảng chính trị Hy Lạp, đồng euro cho đến Afghanistan là những hồ sơ nóng bỏng đang chờ đợi tân Tổng thống. Vẫn còn chưa được thế giới biết đến nhiều, ông Hollande sẽ có dịp cọ sát trong các hội nghị thượng đỉnh G8, NATO và G20 diễn ra trước mùa hè này. Ông François Hollande cần phải vượt qua được chiếc bóng của người tiền nhiệm là ông Nicolas Sarkozy vốn được nước ngoài đánh giá cao vì các sáng kiến của ông.
Chuyên gia Nhật nhìn an
ninh Biển Đông
Lê Quỳnh
Cập nhật: 02:37 GMT - thứ năm, 29 tháng 3, 2012
Nhật Bản xem các tranh chấp lãnh hải gồm vùng Biển Đông là phép thử cho hướng đi tương lai của Trung Quốc trong khi hải quân Quân Giải phóng đang thực hiện chiến lược ba giai đoạn.
Một chuyên gia quốc phòng Nhật Bản cho biết như vậy trong buổi thuyết trình hôm 27/3 ở Hong Kong bàn về tham vọng trên biển của Trung Quốc.Ông Shinji Yamaguchi phát biểu trong bối cảnh tiếp tục có căng thẳng giữa Tokyo và Bắc Kinh sau khi Nhật Bản đầu tuần này tuyên bố một đảo thuộc khu vực tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư là "tài sản quốc gia".
Tại cuộc thảo luận có mặt các nhà ngoại giao và học giả các nước như Mỹ, Pháp, Anh, Trung Quốc và Ấn Độ, ông Shinji Yamaguchi tóm tắt những ý chính trong báo cáo gần đây về hải quân Trung Quốc, đuợc công bố bởi cơ quan của ông, Viện Nghiên cứu Quốc phòng Nhật Bản (NIDS) - đơn vị có quan hệ mật thiết với Bộ Quốc phòng.
Sứ mạng của ông Shinji Yamaguchi ở Hong Kong dường như nhằm quảng bá quan điểm của giới chuyên gia quốc phòng Nhật và cũng để thử phản ứng dư luận trong vùng, đặc biệt là Trung Quốc.
Báo cáo của NIDS nói tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông bắt đầu căng thẳng hơn từ cuối thập niên 1960 và tiếp tục là một trong những yếu tố gây bất ổn ở Đông Nam Á cho đến nay.
Thái độ của Trung Quốc cũng thay đổi tùy thời điểm. Thập niên 1970 và 1980 chứng kiến Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm 1974, bãi đá Gạc Ma năm 1988 và đảo đá ngầm Vành Khăn năm 1995.
Sang cuối thập niên 1990, Bắc Kinh thay đổi giọng điệu và bắt đầu bàn bạc với Asean, dẫn đến Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 hứa hẹn kiềm chế và không dùng vũ lực.
Tuy vậy, ông Yamaguchi ghi nhận, Trung Quốc lại trở nên cứng rắn hơn từ vài năm qua, cùng với sự tăng tiến hoạt động của các cơ quan Hải giám và Ngư chính. Ví dụ, tàu Ngư chính lớn nhất mang số hiệu 311 được điều ra Biển Đông từ tháng Ba 2009 và ngày càng có những hành động khiêu khích, mà điển hình là dính líu vụ cắt cáp tàu Viking 2 của Việt Nam hồi tháng Sáu 2011.
Tài liệu của NIDS cho biết Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cũng chủ động diễn tập trên Biển Đông cùng các cơ quan giám sát hàng hải.
Mỗi năm đều có ít nhất một sự kiện như vậy kể từ 2009, trong đó có cuộc tập trận nhằm "giành lại đảo do quân thù chiếm đóng" hồi mùa hè năm ngoái.
Mục tiêu chiến lược
Dẫn lại báo cáo của NIDS mà ông là một trong bảy người hiệu đính, ông Yamaguchi cho rằng Trung Quốc có ít nhất ba mục tiêu chiến lược từ trung đến dài hạn ở Biển Đông.
Mục tiêu thứ nhất - giúp giải thích sự cứng rắn hơn của Bắc Kinh – là bảo đảm các lợi ích, đặc biệt là kinh tế, trên Biển Đông. Nhu cầu năng lượng của Trung Quốc ngày càng lớn, khi mà phụ thuộc vào dầu thô nhập khẩu đã lên đến 55.2% năm ngoái, cao hơn cả Mỹ (53.5%). Bắc Kinh ngày càng tin rằng sẽ tuyệt vời nếu khai thác được tài nguyên dưới lòng Biển Đông.
Điều đáng nói, các dự báo của Trung Quốc về trữ lượng ở vùng biển này thường cao hơn của nước ngoài. Một nghiên cứu của Trung Quốc cho rằng có 36.78 tỉ tấn dầu và 7.55 nghìn tỉ mét khối khí đốt ở nơi được gọi là "Vịnh Ba Tư thứ hai", trong khi phía Nhật Bản lại dẫn nguồn của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ đoán chỉ có khoảng 3.78 tỉ tấn dầu, còn Husky Energy của Canada thì nói khí đốt tự nhiên gần quần đảo Trường Sa ở khoảng 170 tỉ mét khối.
Viện Quốc phòng Nhật giải thích Trung Quốc "ngày càng bất mãn với các nước có tranh chấp mà lại đang đi đầu trong khai thác tài nguyên ở Biển Đông". Bằng việc gia tăng tuyên bố chủ quyền và phô trương sức mạnh quân sự, Trung Quốc "cố gắng ngừng việc khai thác một chiều của các nước và kiếm tìm lợi thế trong vấn đề này".
Nhiều chuyên gia Trung Quốc, cả dân sự và quân sự, ủng hộ cách tiếp cận này, cho rằng cần đưa hải quân kiểm soát Biển Đông để từ đó chiếm phần hơn khi bước vào đối thoại và đàm phán. Học giả nổi tiếng Diêm Học Thông, Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc tế của Đại học Thanh Hoa, tuyên bố Trung Quốc lâu nay nhường nhịn láng giềng nhưng lại bị lợi dụng và vì thế cần có những biện pháp trừng phạt.
Mục tiêu thứ hai là bảo đảm tuyến đường vận tải trên Biển Đông, trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc ngày càng gắn chặt với kinh tế toàn cầu. Trung Quốc đặc biệt phụ thuộc vào các tuyến đường vận chuyển đi qua eo biển Malacca - khoảng 60% tàu bè đi qua nút thắt cổ chai này treo cờ Trung Quốc hoặc là đang vận chuyển hàng cho Trung Quốc.
Phía Nhật nói Trung Quốc lo ngại việc các láng giềng tranh chấp như Malaysia và Việt Nam đặt mua tàu ngầm. Theo báo cáo, tàu ngầm là vũ khí thích hợp để phá vỡ các tuyến đường biển huyết mạch, và đây cũng là lý do để Trung Quốc đẩy nhanh sự hiện diện của hải quân trong vùng.
Mục tiêu thứ ba xa hơn là đối chọi với quân lực Mỹ mà một dẫn chứng là căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam.
Nhật Bản cho rằng nếu năng lực phòng thủ và tấn công ở Hải Nam được hoàn thiện, nó có thể "làm tăng khả năng đối phó với sự hiện diện của hải quân Mỹ ở vùng biển xung quanh Trung Quốc". Tàu ngầm từ Hải Nam sẽ không chỉ ra đến Biển Đông mà thậm chí đi xa tới tây Thái Bình Dương để hạn chế hoạt động của quân Mỹ.
Một tham vọng lớn của Trung Quốc là cố gắng chế tạo tên lửa đạn đạo đối hải có thể bay xa hơn 1500 cây số để bắn chìm tàu sân bay Mỹ trước khi quân Mỹ kịp vào Vòng phòng thủ thứ nhất (first island chain) trong trường hợp xung đột ở Đài Loan hay Biển Đông. Phía Nhật nhận định mặc dù Trung Quốc "có thể thành công" trong tương lai gần, nhưng hiện tại dự án này vẫn gặp nhiều trục trặc kỹ thuật.
Nhật tìm đối tác
Ông Yamaguchi cho hay là quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Hoa Đông, Nhật Bản buộc phải quan tâm đến tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước ở Biển Đông. Trước mắt, khác với ở Biển Đông, Trung Quốc không khiêu khích Nhật Bản bằng những sự kiện như quấy rối tàu khảo sát nước ngoài hay tập trận đạn thật rầm rộ. Lý do chính có lẽ đơn giản là vị thế của Nhật cũng như rủi ro làm xấu đi quan hệ với Mỹ, vốn đang đặt căn cứ quân sự tại Nhật.
Tuy vậy, Nhật Bản cáo buộc ngày càng xuất hiện nhiều tàu Ngư chính và Hải giám của Trung Quốc ở khu vực quần đảo tranh chấp Senkaku, mà Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư. Năm ngoái, hai máy bay do thám của Trung Quốc cũng lần đầu tiên bay đến sát bãi đáp của Nhật trên đảo. Tokyo lo ngại nếu sức mạnh quân sự của Trung Quốc cải thiện trên cả Biển Hoa Đông, thì có thể Trung Quốc sẽ có thái độ cứng rắn tương tự như đã xảy ra ở Biển Đông.
Bản báo cáo của NIDS khuyên Trung Quốc rằng "gây áp lực với các nước tranh chấp ở Đông Nam Á có thể chỉ khiến các nước lo bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hung hăng hơn, mà kết quả là làm tăng căng thẳng khu vực". Theo họ, Trung Quốc cần hòa hoãn hơn và có những bước cụ thể để hoàn tất một bộ quy tắc ứng xử trên biển với các nước Asean.
Một chuyên gia về Nhật Bản, GS. Jean-Pierre Cabestan (Đại học Hong Kong Baptist), nói với BBC tại hội thảo rằng mức độ cạnh tranh hay hợp tác giữa Nhật và Trung Quốc sẽ phụ thuộc liệu Bắc Kinh có tôn trọng trật tự hiện nay ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nơi Nhật đã quản lý hành chính, hay không.
"Nó cũng phụ thuộc hai nước có tìm được cách cùng khai thác ở khu vực Shirakaba/Chunxiao. Đó sẽ là nguồn cảm hứng cho Trung Quốc và Đông Nam Á tìm kiếm thỏa thuận tương tự ở Biển Đông," ông nói.
Đó là hy vọng, còn thực tế gần đây giới học giả và dư luận Nhật ngày càng lo ngại về sự tăng cường quân sự của Trung Quốc. Khảo sát của BBC World Service năm 2011 cho hay 88% người Nhật có phản ứng tiêu cực trước viễn cảnh quân đội Trung Quốc trở nên mạnh hơn.
Chính phủ Nhật cũng đã chuyển trọng tâm từ Lực lượng Tự vệ trên Bộ sang trên Biển, đồng thời tái khẳng định liên minh Mỹ - Nhật, củng cố quan hệ với các nước "cùng chia sẻ giá trị" như Úc và Hàn Quốc. Tại Đông Nam Á, Tokyo cũng nhấn mạnh hợp tác đa phương, trong đó có với Việt Nam. Năm ngoái, Thứ trưởng quốc phòng Nhật tuyên bố nước này sẽ đóng vai trò "hợp tác cụ thể hơn" trong cuộc gặp với giới chức Asean bàn về Biển Đông.
Và nói như một phóng viên thường trú ở Tokyo, tin tức tại Nhật Bản hiện nay hình như chỉ xoay quanh hai vấn đề: sức khỏe của nền kinh tế Trung Quốc (mà Nhật và cả châu Á phụ thuộc), cùng các bài viết về đe dọa an ninh của Trung Quốc.
Mới nhất trong tuần này, Nhật Bản và Trung Quốc lại cãi vã sau khi Chánh văn phòng nội các Nhật Bản Osamu Fujimura cho hay một trong bốn đảo ở khu vực Senkaku/Điếu Ngư được xếp vào tài sản quốc gia.
Bốn hòn đảo được Nhật chính thức đặt tên vào đầu tháng Ba. Đáng chú ý, theo báo Nhật, năm ngoái Tokyo tuyên bố kiểm soát 23 đảo trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, nhưng đã chừa ra bốn đảo trên để tránh kích động Bắc Kinh. Như thế, động thái liên quan bốn đảo này giờ đây phải được xem là sự cố ý đối đầu ngoại giao.
Sự cạnh tranh chiến lược Nhật - Trung có thể được một số nước tranh chấp Biển Đông ngầm hoan nghênh. Hôm 23/3 lần đầu tiên diễn ra Đối thoại Chiến lược cấp thứ trưởng giữa Nhật và Philippines. Theo truyền thông Nhật, Tokyo có gợi ý cho Philippines tàu tuần tra theo hình thức vốn vay ODA.
Nhưng Trung Quốc sẽ xem những động thái như vậy là sự bao vây. Không khó để hình dung tranh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét